BÀI BÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

1. BÀI BÁO KHOA HỌC VÀ CÁC DẠNG BÀI BÁO KHOA HỌC CHÍNH
𝐁𝐚̀𝐢 𝐛𝐚́𝐨 𝐤𝐡𝐨𝐚 𝐡𝐨̣𝐜 𝐥𝐚̀ 𝐠𝐢̀?
Nghiên cứu khoa học ngày nay đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống học thuật. Khi nghiên cứu được triển khai thực hiện và có kết quả thì kết quả nghiên cứu đó cần được chia sẻ. Bài báo khoa học là một kênh chính thống để công bố và chia sẻ kết quả nghiên cứu khoa học. Vậy bài báo khoa học là gì?
Một cách ngắn gọn nhất, một bài báo khoa học là một báo cáo được viết và xuất bản trong một tạp chí có bình duyệt mô tả những kết quả nghiên cứu gốc [Gastel, B. & Day, R. (2016), How to write and publish a scientific (8th ed.), Santa Barbara, CA: Greenwood]. Cụ thể hơn thì một bài báo khoa học (hay còn gọi là bài báo đăng trong tạp chí khoa học) là một thể loại bài viết học thuật và nó có những quy chuẩn chặt chẽ. Bài báo khoa học thường có độ dài từ 05 đến 40 trang (2.500 – 12.000 từ tiếng Anh), và có từ 05 đến 50 tài liệu tham khảo. Bài báo khoa học bàn luận về nghiên cứu của các nhà khoa học khác và được phản biện bởi các nhà khoa học khác (người bình duyệt) có cùng chuyên ngành [Belcher, W. L. (2019), Writing your article in 12 weeks: a guide to academic publishing success (2nd ed.), Chicago: Chicago University Press].
Bài báo khoa học không chỉ là sản phẩm tri thức, mà còn là một loại “tiền tệ” (currency) của giới khoa học, bởi vì qua các bài báo khoa học người ta có thể đánh giá khả năng chuyên môn và năng suất khoa học của nhà nghiên cứu [Nguyễn Văn Tuấn (2005), Cách viết bài báo khoa học cho các tập san quốc tế, http://vietsciences.free.fr/.../cachvietbaocaokhoahoc.htm].
𝐂𝐚́𝐜 𝐝𝐚̣𝐧𝐠 𝐛𝐚̀𝐢 𝐛𝐚́𝐨 𝐤𝐡𝐨𝐚 𝐡𝐨̣𝐜
Nhà xuất bản uy tin quốc tế Springer liệt kê 05 loại bài báo khoa học chính, bao gồm: bài báo nghiên cứu gốc (original research article), bài báo ngắn (short report or letter), bài điểm báo (review article), báo cáo trường hợp (case study) và bài báo về phương pháp nghiên cứu (methodology or method) [Springer. (n.d.), Types of journal articles, https://www.springer.com/.../types-of.../10285504
]. Ngoài ra còn có một số loại bài báo khác như bài điểm sách (book review), bài xã luận (editorial) và thư cho tòa soạn (letter to the editor). Dưới đây tập trung trình bày 04 loại bài báo phổ biến nhất:
Thứ nhất là bài báo nghiên cứu gốc hay còn gọi là bài báo nguyên thủy (original article), hoặc đơn giản chỉ là bài báo nghiên cứu (research article). Đây là dạng bài báo khoa học phổ biến nhất. Mục đích của dạng bài báo này là báo cáo kết quả của một nghiên cứu dựa trên dữ liệu sơ cấp (primary data), tức là dữ liệu được nhà nghiên cứu thu thập từ các nguồn đầu tiên qua khảo sát, phỏng vấn, thí nghiệm, v.v. Bài báo nghiên cứu gốc phải có đầy đủ các phần như Đặt vấn đề (Introduction), Phương pháp (Methods), Kết quả (Results) và Bàn luận (Discussion). Một bài báo nghiên cứu thường có độ dài 3.000 – 8000 từ tiếng Anh, trường hợp đặc biệt có thể lên tới 10.000 từ hoặc thậm chí 12.000 từ.
Thứ hai là bài báo nghiên cứu ngắn hay đôi khi gọi là bài tin ngắn (brief communication), hoặc đơn giản bài báo ngắn (short paper/ letter). Lưu ý từ “letter” ở đây không phải là “chữ cái” hay “lá thư” mà là bài báo khoa học ngắn. Dạng bài báo này thông tin ngắn gọn nhưng quan trọng một hoặc một vài kết quả của nghiên cứu gốc. Đây có thể coi là một dạng rút gọn của bài báo nghiên cứu gốc. Một bài báo nghiên cứu ngắn thường có độ dài 600 – 1000 từ, trường hợp đặc biệt có thể lên tới trên 2.000 từ, nhưng không vượt quá 3.000 từ.
Thứ ba là bài điểm báo hay thường gọi là bài báo nghiên cứu tổng thuật (literature review). Loại bài báo này cung cấp thông tin toàn diện về một chủ đề nghiên cứu nhất định thông qua phân tích tài liệu sơ cấp (primary data). Các khoảng trống nghiên cứu (research gap) trong lĩnh vực tổng thuật cũng thường được trình bày ở bài điểm báo. Dạng bài này thường được viết bởi các nhà nhiên cứu đầu ngành hoặc có uy tín trong một lĩnh vực cụ thể sau khi được biên tập viên hoặc tổng biên tập của một tạp chí mời. Bài điểm báo thường trích dẫn một số lượng bài báo khá lớn, mức trung bình khoảng 100 bài. Một bài điểm báo thường có độ dài như một bài báo nghiên cứu gốc với khoảng 3.000 – 5000 từ, trường hợp đặc biệt có thể lên tới 10.000 từ.
Thứ tư là bài điểm sách. Đây là một loại bài báo ngắn viết nhận xét về một cuốn sách chuyên khảo mới xuất bản hoặc được nhiều người quan tâm. Bài điểm sách thường bắt đầu với việc tóm tắt nội dung cuốn sách. Trong bài điểm sách, tác giả nhận xét, bình luận về những đóng góp của cuốn sách. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra những điểm mà cuốn sách chưa đề cập đến hoặc mong muốn được đọc. Bài điểm sách thường không được coi là một bài báo nghiên cứu khoa học vì không chứa nhiều giá trị học thuật. Một bài điểm báo thường có độ dài từ 600 – 2.000 từ, và mức độ thường thấy là 1.000 từ.
Nắm rõ khái niệm về bài báo khoa học và các dạng bài báo chính là điều cần thiết để các nhà nghiên cứu trẻ, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuẩn bị cho việc viết bài và xuất bản bài báo khoa học.
𝑁𝑔𝑢𝑜̂̀𝑛: 𝑇𝑎̣𝑝 𝑐ℎ𝑖́ 𝐺𝑖𝑎́𝑜 𝑑𝑢̣𝑐
Đón đọc phần 2: Tại sao phải công bố bài báo khoa học trong các tạp chí có uy tín?

2. TẠI SAO PHẢI CÔNG BỐ BÀI BÁO KHOA HỌC TRONG CÁC TẠP CHÍ CÓ UY TÍN?
“Công bố bài báo khoa học để làm gì?” hay “Tại sao phải công bố bài báo khoa học trong các tạp chí uy tín?”. Dưới đây, xin trao đổi một số câu trả lời để chúng ta cùng bàn luận.
Trước tiên cần thống nhất thế nào là một tạp chí có uy tín. Trong khuôn khổ bài viết này tạp chí uy tín được hiểu là những tạp chí thuộc danh mục tạp chí quốc tế và quốc gia có uy tín do Quỹ Phát triển Khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) ban hành năm 2019. Cụ thể, tạp chí trong nước có uy tín là các tạp chí thuộc danh mục tạp chí do Hội đồng Chức danh giáo sư Nhà nước công bố hàng năm có điểm tối đa cao nhất từ 1 điểm trở lên. Tạp chí quốc tế có uy tín là những tạp chí thuộc cơ sở dữ liệu của Web of Science và Scopus, của các nhà xuất bản có uy tín trên thế giới như Elsevier, Springer, Sage,... [NAFOSTED, Quyết định số 151/QĐ-HĐQL-NAFOSTED phê duyệt Danh mục các tạp chí quốc tế có uy tín và tạp chí ISI có uy tín trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội; Quyết định số 251/QĐ-HĐQL-NAFOSTED phê duyệt phê duyệt Danh mục tạp chí quốc tế và quốc gia có uy tín trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn].
Còn với câu hỏi “Tại sao phải công bố bài báo khoa học trong các tạp chí có uy tín?”, câu trả lời có thể tóm lược trong những lý do sau:
Thứ nhất là để đóng góp vào kho tàng tri thức của nhân loại. Điều này với nhiều người nghe có vẻ mơ hồ hoặc quá to tát, nhưng thật vậy, khi bài báo của bạn được chấp nhận đăng trong một tạp chí khoa học uy tín thì công trình của bạn cũng cung cấp một hàm lượng kiến thức nào đó để góp vào nguồn tri thức của nhân loại.
Thứ hai là để lưu trữ công trình nghiên cứu của bạn. Tất nhiên rồi, sẽ rất tốt nếu như kết quả nghiên cứu của bạn được lưu giữ dưới dạng một hoặc một số bài báo đăng trong tạp chí khoa học quốc gia hay quốc tế có uy tín.
Thứ ba là để cho công trình nghiên cứu của bạn được nhận diện ở bình diện quốc gia hoặc quốc tế. Một bài báo được đăng trong tạp chí quốc tế tất nhiên sẽ được những độc giả ở nhiều quốc gia trên thế giới biết đến.
Thứ tư là để lan tỏa kết quả nghiên cứu của bạn đến với nhiều người. Khi nghiên cứu của bạn được xuất bản trong một tạp chí có uy tín thì sẽ được nhiều người biết đến, kể cả các độc giả bên ngoài lãnh thổ quốc gia.
Thứ năm là để khẳng định vị trí của bạn trong bản đồ các nhà khoa học trong nước và quốc tế có bài báo quốc tế. Bạn sẽ khẳng định được tên tuổi và vị trí của mình trong ngành và trong lĩnh vực nghiên cứu qua các bài báo có chất lượng và có cơ hội được trích dẫn nhiều.
Thứ sáu là để có cơ sở để xin tài trợ từ các quỹ hoặc các tổ chức trong và ngoài nước. Bài báo khoa học là một loại chứng nhận “nặng ký” xác nhận năng lực nghiên cứu và khả năng xuất bản của bạn. Điều này nhiều khi đóng vai trò quyết định để các quỹ đồng ý tài trợ nghiên cứu.
Thứ bảy là để đủ điều kiện hoặc thuận lợi để được đề bạt, phát triển chuyên môn. Nhiều trường đại học của Việt Nam quy định để có thể giảng dạy ở những lớp chất lượng cao, giảng viên phải có bài báo quốc tế. Để đạt công nhận tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư ở Việt Nam yêu cầu ứng viên phó giáo sư phải công bố được ít nhất 03 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế có uy tín, và với ứng viên giáo sư là 05 bài [Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg ngày 31/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư; thủ tục xét hủy bỏ công nhận chức danh và miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư].
Thứ tám là để đủ điều kiện để bảo vệ luận án tiến sĩ hoặc nhận bằng tiến sĩ. Nhiều trường đại học trên thế giới yêu cầu nghiên cứu sinh được nộp các bài báo khoa học có phản biện là kết quả của quá trình nghiên cứu tiến sĩ để được xét cấp bằng. Ở Việt Nam có quy định một trong những điều kiện để nghiên cứu sinh được đăng ký đánh giá luận án ở đơn vị chuyên môn khi phải là tác giả chính của bài báo khoa học được công bố trong các ấn phẩm thuộc danh mục WoS/Scopus, hoặc bài báo đăng trên các tạp chí khoa học trong nước được Hội đồng Giáo sư nhà nước quy định khung điểm đánh giá tới 0,75 điểm trở lên theo ngành đào tạo [Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 18/2021/TT-BGDĐT ngày 28/6/2021 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ].
Thứ chín là để có điểm cộng hoặc thuận lợi khi xin học và/hoặc xin học bổng cho học thạc sĩ (đặc biệt là thạc sĩ nghiên cứu) hoặc tiến sĩ. Có bài báo quốc tế sẽ là điều rất thuận lợi, một bằng chứng rất tốt cho năng lực nghiên cứu của bạn.
Thứ mười là để trả sản phẩm đầu ra của dự án được tài trợ. Ví dụ quỹ Phát triển khoa học và Công nghệ quốc gia (NAFOSTED) yêu cầu sản phẩm đầu ra cho một đề tài nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn phải là ít nhất 01 bài báo công bố trên tạp chí quốc tế có uy tín và 02 bài báo công bố trên tạp chí quốc gia có uy tín [NAFOSTED, Thông báo Chương trình tài trợ nghiên cứu cơ bản trong Khoa học xã hội và nhân văn năm 2020 đợt II, https://nafosted.gov.vn/thong-bao-chuong-trinh-tai-tro.../
].
Thứ mười một là để tìm kiếm cơ hội hợp tác nghiên cứu khoa học trong và/hoặc ngoài nước. Khi bạn là tác giả, đặc biệt là tác giả liên hệ của một bài báo trong một tạp chí có uy tín, thì sẽ có nhiều nhà khoa học khác biết đến bạn. Từ đó có thể mở ra những cơ hội hợp tác nghiên cứu mới.
Thứ mười hai là để được nhận tiền thưởng. Nhiều trường đại học Việt Nam có mức thưởng khá cao (có thể lên tới vài trăm triệu đồng) cho một bài báo được đăng trong những tạp chí hàng đầu trong danh mục AHCI, SCIE hoặc SSCI của Web of Science. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng có nhiều chính sách thưởng cho các công bố quốc tế có chất lượng cao.
Thứ mười ba là để được xét đạt danh hiệu Chiến sỹ thi đua ở các cơ quan nghiên cứu (đặc thù Việt Nam)😀
Trên tất cả, nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu xác nhận rằng họ viết bài và đăng bài ở những tạp chí có uy tín chỉ bởi niềm đam mê. Sẽ chẳng có gì vui sướng và tự hào hơn khi thấy bài viết của mình được đăng trong tạp chí hàng đầu của ngành.
Đón đọc phần 3: Thế nào là một tạp chí khoa học?


3. THẾ NÀO LÀ MỘT TẠP CHÍ KHOA HỌC?
Trong những bài viết trước chúng ta đã bàn luận nhiều về tạp chí khoa học và tạp chí khoa học có uy tín. Vậy “thế nào là một tạp chí khoa học?” Đây có thể là một câu hỏi không khó với những nhà khoa học có kinh nghiệm trong công bố bài báo khoa học. Còn với những nhà nghiên cứu trẻ, liệu các bạn có gặp khó khăn để nhận biết một tạp chí khoa học? Trong bài viết tuần này, chúng ta sẽ cùng trao đổi về khái niệm “tạp chí khoa học”.
Một tạp chí khoa học (scientific journal) hay thường gọi là tạp chí học thuật (scholarly/academic journal) hoặc tạp chí có bình duyệt (peer reviewed journal) là tạp chí xuất bản định kỳ (periodical) có các bài báo được viết bởi các chuyên gia trong một lĩnh vực nghiên cứu cụ thể. Các bài báo trong tạp chí khoa học thường phức tạp và có cấu trúc chặt chẽ hơn nhiều so với các bài báo trong các tạp chí thông thường (general magazine). Độc giả của các tạp chí khoa học thường cũng là các chuyên gia, các học giả hoặc sinh viên trong lĩnh vực liên quan (VVC Libaray, n.d).
Còn theo Belcher (2019) thì một tạp chí khoa học là một tạp chí xuất bản định kỳ xuất bản những bài báo nghiên cứu gốc (original research) trong các số báo (issue). Một tạp chí có thể xuất bản từ 01 cho đến 52 số trong một năm và mỗi số có thể có từ 04 đến 20 bài báo. Ngoài việc đăng các bài báo nghiên cứu thì trong mỗi số báo cũng đăng các bài bình luận, bài điểm sách, thư phản hồi độc giả. Một tạp chí xuất bản các bài báo nghiên cứu về một hoặc nhiều chuyên ngành hoặc lĩnh vực.
Các tạp chí khoa học đều thực hiện quy trình bình duyệt (peer review), một cơ chế kiểm soát chất lượng bài báo khoa học, trong đó có từ 01 đến 04 nhà khoa học là chuyên gia trong lĩnh vực thực hiện đánh giá bài báo. Những người bình duyệt này (còn được gọi là người phản biện) xác định những bất cập, hạn chế và sai sót trong các bài báo và đưa ra các khuyến nghị để tác giả chỉnh sửa, cải thiện bài báo. Những người bình duyệt có vai trò hỗ trợ tổng biên tập tạp chí đưa ra quyết định về giá trị của bản thảo bài báo.
Một tạp chí khoa học thường có các thành viên và các ban sau: tổng biên tập (editor), thư ký tòa soạn (managing director), ban biên tập (editorial board) và ban cố vấn (advisory board). Tổng biên tập tạp chí chịu trách nhiệm định hướng và đảm bảo các quy trình trí tuệ của tạp chí. Thư ký tòa soạn quản lý hậu cần xuất bản tạp chí. Các thành viên ban biên tập đồng ý bình duyệt một số lượng nhất định các bài báo mỗi năm. Ban cố vấn là những người có uy tín trong ngành đồng ý để tên tuổi uy tín của họ gắn với tạp chí nhưng không thực hiện công việc gì cho tạp chí.
Hiện tại việc tồn đọng xuất bản bài báo cơ bản đã không còn vì nhiều tạp chí đã thực hiện xuất bản trực tuyến trước (online first). Đây là cách mà một bài báo được xuất bản trước khi được in ấn sau khi đã hoàn thành khâu đọc rà soát (proofread), khâu đọc để kiểm tra cuối cùng. Thông thường mỗi bài báo sẽ được gắn một mã định danh vĩnh viễn DOI (Digital Object Identifiers) (SAGE Journal, n.d). Những bài báo xuất bản trực tuyến trước này sẽ được sắp xếp để đưa vào các số phù hợp của tạp chí.
(Nguồn: Tạp chí Giáo dục)
Đón đọc phần 4: Quy trình xuất bản một bài báo khoa học

4. QUY TRÌNH XUẤT BẢN MỘT BÀI BÁO KHOA HỌC
Quy trình xuất bản một bài báo khoa học trải qua nhiều bước. Tùy thuộc vào quy mô và chính sách của mỗi tạp chí, năng lực và sự chuyên nghiệp của tổng biên tập, ban biên tập, những người bình duyệt, kiến thức và thời gian của đội ngũ nhân viên hỗ trợ, cũng như liệu bài báo có được gửi cho một số đặc biệt hay không mà các bước xuất bản một bài báo khoa học có thể khác nhau. Tuy nhiên, nói chung việc xuất bản một bài báo khoa học cần trải qua các bước: gửi bản thảo cho tạp chí, kiểm tra chất lượng ban đầu của bản thảo, lựa chọn người phản biện, phản biện, ra quyết định, phản hồi của tác giả, phản biện lần 2 (nếu có), chỉnh sửa văn phong, diễn đạt, đọc rà soát, hiệu đính và xuất bản (Belcher, 2019).
Bước 1: Gửi bản thảo cho tạp chí (submission)
Tác giả liên hệ gửi bản thảo bài báo cho một tạp chí (lưu ý chỉ gửi duy nhất một tạp chí). Hiện tại hầu hết các tạp chí yêu cầu tác giả tạo tài khoản và gửi bài qua hệ thống gửi bài trực tuyến (online submission system) của tạp chí. Ngoài ra, có một số ít tạp chí thực hiện việc gửi bài qua email. Tác giả sẽ gửi bản thảo qua email tới tạp chí hoặc tổng biên tập của tạp chí. Cần lưu ý là cho dù có gửi bài theo hình thức nào thì mỗi bản thảo chí được gửi duy nhất cho một tạp chí. Tác giả phải đợi cho tạp chí quyết định có chấp nhận xuất bản bài báo đó hay không thì mới được gửi cho một tạp chí khác (luật chỉ gửi bài một lần).
Bước 2: Kiểm tra chất lượng ban đầu của tổng biên tập (editorial review)
Tổng biên tập tạp chí sẽ xem xét tất cả các bản thảo gửi đến, đánh giá xem liệu bản thảo có đáp ứng những tiêu chí cơ bản của tạp chí không (ví dụ: phù hợp với phạm vi của tạp chí, trích dẫn tài liệu, sử dụng từ và ngữ pháp và nội dung không quá giống với những bài đã xuất bản trước đó), và không có sai sót lớn (ví dụ: có vần đề về phương pháp luận hoặc không có lập luận). Nếu bài báo không đáp ứng được các tiêu chí cơ bản thì tổng biên tập sẽ từ chối (reject) bài báo. Trường hợp này được gọi là bài báo bị từ chối tại bàn của tổng biên tập (desk rejection). Các tổng biên tập ngày càng từ chối nhiều bài báo mà không gửi chúng đi bình duyệt. Có khoảng 30-50% bản thảo bị tổng biên tập của các tạp chí thuộc nhà xuất bản Elsevier từ chối ở bước này (Elsevier, 2015).
Bước 3: Lựa chọn người phản biện (peer review selection)
Nếu tổng biên tập nhận thấy bài báo đáp ứng những tiêu chí cơ bản và không có sai sót lớn thì sẽ tìm người phản biện (bình duyệt). Đây là bước không dễ dàng vì tổng biên tập phải tìm người có chuyên môn phù hợp với bài báo và sẵn sàng dành thời gian để bình duyệt. Thông thường, tổng biên tập sẽ lựa chọn một thành viên của ban biên tập và một tác giả vừa có bài đăng trong tạp chí. Một số tạp chí cho phép tác giả giới thiệu người phản biện, và tổng biên tập có thể lựa chọn một trong số những người này. Người phản biện được yêu cầu nhanh chóng gửi kết quả phản biện, tuy nhiên họ hiếm khi gửi đúng hạn. Khi đó tổng biên tập phải “nài nỉ” người phản biện gửi kết quả đánh giá và đây là công việc chính của bất kỳ tổng biên tập nào.
Bước 4: Phản biện
Những người bình duyệt đọc bản thảo và đánh giá bài báo về tính độc đáo, đóng góp, sự rõ ràng, tính học thuật, kết quả thuyết phục, phương pháp chắc chắn, phân tích thú vị và lập luận chặt chẽ. Một số tạp chí có những hướng dẫn phản biện rất rõ ràng (ví dụ như yêu cầu người bình duyệt trả lời những câu hỏi cụ thể, điền vào bảng đánh giá hoặc cho điểm các nội dung liên quan đến bài báo). Người bình duyệt sau đó sẽ gửi cho tổng biên tập báo cáo bình duyệt trong đó nêu rõ những điểm mạnh, điểm yếu của bài báo và đề xuất cải tiến. Người bình duyệt cũng khuyến nghị tổng biên tập nên chấp nhận đăng bài hoặc từ chối bài báo đó. Khuyến nghị thường là chấp nhận đăng (accept), chỉnh sửa nhỏ (minor revision), chỉnh sửa lớn (major revision) hoặc từ chối (reject).
Bước 5: Ra quyết định của tổng biên tập (editorial decision)
Dựa trên khuyến nghị của các phản biện và số lượng các bản thảo đã được chấp nhận đăng, tổng biên tập sẽ quyết định liệu có chấp nhận bài báo đó không. Nếu như tất cả những người bình duyệt đều đồng ý là bài báo đó có chất lượng tốt hoặc không tốt thì việc đưa ra quyết định rất dễ dàng. Thách thức xảy ra khi một người bình duyệt đánh giá tốt và đề nghị đăng bài, nhưng người bình duyệt kia lại đánh giá không tốt và đề nghị từ chối. Trong trường hợp này tổng biên tập thường sẽ gửi bài báo cho một người bình duyệt khác để có thêm thông tin và sẽ quyết định theo những khuyến nghị giống nhau. Ở một số tạp chí, tổng biên tập sẽ quyết định ngay và thường nghiêng theo hướng tiêu cực (từ chối). Điều này giải thích tại sao có rất ít bài báo được chấp nhận đăng hàng năm. Tổng biên tập khi đó sẽ gửi một thư quyết định (decision letter) cho tác giả thông báo kết quả bình duyệt. Thường thì ở bước này không có việc chấp nhận đăng ngay mà là chỉnh sửa nhỏ, chỉnh sửa lớn hoặc từ chối.
Bước 6: Phản hồi của tác giả
Tùy thuộc vào nội dung trong thư quyết định của tổng biên tập mà tác giả có thể có những phản hồi khác nhau. Nếu bài báo bị từ chối, tác giả thường gửi bài cho một tạp chí khác (sau khi đã chỉnh sửa hoặc không chỉnh sửa bài). Nếu bài báo được yêu cầu chỉnh sửa, tác giả sẽ chỉnh sửa bài theo những góp ý của người bình duyệt. Tác giả sẽ gửi lại bài bài đã chỉnh sửa cùng với một thư phản hồi cho tổng biên tập trong đó nêu rõ những điểm đã chỉnh sửa. Tất nhiên, tác giả cũng có thể không chỉnh sửa những khuyến nghị được cho là không hợp lý. Những khuyến nghị không được chỉnh sửa này cần được giải thích kỹ lưỡng trong thư phản hồi tổng biên tập.
Bước 7: Phản biện lần 2 (nếu có)
Qua vòng phản biện đầu tiên, nếu bài báo chỉ được yêu cầu chỉnh sửa nhỏ thì thường tổng biên tập sẽ tự quyết định bài báo sau khi được chỉnh sửa đạt yêu cầu và chấp nhận hay chưa. Trường hợp bài báo được yêu cầu chỉnh sửa lớn thì tổng biên tập sẽ gửi bài cho chính những người bình duyệt bài báo đó để xem xét, hoặc thậm chí gửi cho cả người bình duyệt mới. Có nhiều bài báo phải trải qua rất nhiều vòng bình duyệt với việc tác giả phải chỉnh sửa bài tới ba hoặc thậm chí bốn lần.
Bước 8: Chỉnh sửa văn phong, diễn đạt, đọc rà soát, hiệu đính và xuất bản
Khi bài báo trải qua các vòng bình duyệt, chỉnh sửa và được tổng biên tập chấp nhận cho đăng thì sẽ được chuyển cho biên tập viên của nhà xuất bản (đối với những tạp chí thuộc các nhà xuất bản lớn) hoặc thư ký tòa soạn (đối với những tạp chí nhỏ) để chỉnh sửa văn phong, diễn đạt (copyediting). Ở bước này bản thảo được chỉnh sửa các lỗi về chính tả, sử dụng từ, ngữ pháp, dấu câu, diễn đạt. Bản thảo này được gửi cho tác giả để xem xét liệu những chỉnh sửa đó đã hợp lý chưa. Thông thường tác giả sẽ có từ ba đến bảy ngày để phản hồi. Tiếp đó, bài báo được định dạng theo format của tạp chí. Bản định dạng này được gọi là bản chỉnh sửa lần cuối hay bản hiệu đính (proof) và được gửi cho tác giả để đọc soát lỗi lần cuối (proofreading). Tác giả sẽ xem bài báo lần cuối cùng để đảm bảo không còn sai sót hoặc lỗi nào và có 48 giờ để phản hồi. Một số tạp chí gộp luôn khâu copyediting vào khâu proofreading. Bản thảo bài báo khi hoàn tất khâu đọc rà soát, hiệu đính thường sẽ được xuất bản trực tuyến trước (online first), và chờ để được đưa vào một số phù hợp của tạp chí.
Với các bước trên và phụ thuộc vào nhiều yếu tố (thời gian tổng biên tập kiểm tra chất lượng bước đầu, thời gian phản biện, số lần phản biện, thời gian chỉnh sửa và gửi lại bài) thì khoảng thời gian từ khi gửi bản thảo lần đầu cho đến khi bài báo được xuất bản sẽ là vài tháng đến một năm hoặc thậm chí ba năm (Belcher, 2019).
(Nguồn: Tạp chí Giáo dục)
P/S: Đây là bài viết tham khảo, không phải là quy trình xuất bản của Tạp chí Nhà nước và Pháp luật.
Đón đọc phần 5: Cấu trúc phổ quát của bài báo nghiên cứu


5. CẤU TRÚC PHỔ QUÁT CỦA BÀI BÁO NGHIÊN CỨU
Như đã trình bày ở các bài trước (xem bài Bài báo khoa học và các dạng bài báo khoa học chính) thì bài báo nghiên cứu (research article) là dạng bài báo khoa học phổ biến nhất. Thông thường nội dung chính của một bài báo nghiên cứu được triển khai theo cấu trúc IMRaD (được phát âm tiếng Anh là /ˈɪmræd/). Trong đó, I (Introduction – Đặt vấn đề), M (Materials and Methods/ Methods – Phương pháp nghiên cứu), R (Results –Kết quả nghiên cứu), a (and – và; đây chỉ là từ nối để đọc cho vần), D (Discussion – Bàn luận) (Day, 1989). Cấu trúc IMRaD được bắt đầu sử dụng từ những năm 1940 và được áp dụng cho các bài báo khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Lý do chính để cấu trúc IMRaD được chấp nhận rộng rãi là cấu trúc này giúp các bài báo khoa học được trình bày theo cách dễ hiểu với người đọc và loại bỏ các chi tiết không cần thiết (Trịnh Thị Phương Thảo và cộng sự, 2020).
Tùy theo lĩnh vực và quy định của tạp chí mà cấu trúc IMRaD có thể được thay đổi hoặc điều chỉnh một chút. Cấu trúc đặc thù của một bài báo nghiên cứu trong lĩnh vực xã hội và nhân văn thường thấy gồm các phần: Tiêu đề (Title), Tóm tắt (Abstract), Từ khóa (Keywords), Đặt vấn đề (Introduction), Tổng quan nghiên cứu (Literature Review), Phương pháp nghiên cứu (Methods), Kết quả nghiên cứu (Results/ Findings), Bàn luận (Discussion), Kết luận, Lời cảm ơn (Acknowledgement) (nếu có), Tài liệu tham khảo (References), Phụ lục (Appendix) (nếu có) (Foreman, 2015; Kotzé, 2007).
Qua tổng hợp các nguồn dữ liệu, đặc biệt qua phân tích các bài báo nghiên cứu trong lĩnh vực xã hội và nhân văn được chỉ mục trong cơ sở dữ liệu của Web of Science và Scopus, cấu trúc của một bài báo nghiên cứu với độ dài 4000-8000 từ và yêu cầu của từng phần có thể được tóm lược trong Bảng 1.
Cần phải lưu ý đây chỉ là một cấu trúc phổ biến của một bài báo nghiên cứu. Các tạp chí có thể có những quy định về định dạng khác nhau cho bản thảo (manuscript) gửi cho tạp chí đó. Do vậy, các tác giả cần kiểm tra thông tin cụ thể trong mục Hướng dẫn dành cho tác giả (Guides/Instructions for Authors) hoặc Hướng dẫn gửi bản thảo (Submission Guides) của tạp chí dự định gửi bài để chuẩn bị bản thảo đúng với yêu cầu của tạp chí.
(Nguồn: Tạp chí Giáo dục)
Đón đọc phần 6: Một số lưu ý khi viết tiêu đề của một bài báo khoa học




6. MỘT SỐ LƯU Ý KHI VIẾT TIÊU ĐỀ CỦA MỘT BÀI BÁO KHOA HỌC
Chắc chắn bạn hiểu được tầm quan trọng tiêu đề (title) bài báo của bạn. Khi bài báo được xuất bản thì có thể có khá ít người đọc cả bài, nhưng chắc chắn sẽ có rất nhiều người đọc tiêu đề của bài. Một tiêu đề bài báo khoa học tốt được định nghĩa là tiêu đề sử dụng ít nhất số từ có thể để mô tả đầy đủ nội dung của bài báo (Gastel & Day, 2016). Theo Belcher (2019) thì tiêu đề của bài báo là phần đầu tiên mà độc giả sẽ tìm và đọc. Tiêu đề cũng thường là phần duy nhất được cung cấp cho người bình duyệt (peer reviewer) để họ xem xét và quyết định có dành thời gian để bình duyệt bản thảo bài viết của bạn hay không (một số tạp chí có thể cung cấp phần Tóm tắt - Abstract). Tất nhiên ai cũng mong muốn đặt tiêu đề bài báo của mình vừa súc tích, bao quát được nội dung của bài và phải độc đáo, dễ nhớ. Tuy nhiên, đây lại là công việc khá khó đối với những nhà nghiên cứu trẻ. Khi bạn chưa nghĩ được một tiêu đề như trên thì có thể những gợi ý sau sẽ giúp bạn có được một tiêu đề bài báo hợp lý.
Khi đặt tiêu đề bài báo khoa học, các bạn có thể lưu ý những điểm sau:
- Độ dài của tiêu đề: 8-15 từ tiếng Anh;
- Tiêu đề phải thu hút sự chú ý của độc giả;
- Tiêu đề phải phản ánh rõ được vấn đề chính sẽ thảo luận trong bài viết.
Một tiêu đề tốt cần trả lời được những câu hỏi sau:
- Nghiên cứu về vấn đề gì?
- Vấn đề được nghiên cứu như thế nào (sử dụng phương pháp/kỹ thuật gì)?
- Nghiên cứu với đối tượng nào (với ai)?
- Ở đâu/trong bối cảnh nào nghiên cứu được thực hiện?
Tiêu đề có thể được đặt theo cách sau:
Vấn đề nghiên cứu: cách thức nghiên cứu + đối tượng nghiên cứu + địa điểm nghiên cứu.
Các bạn lưu ý là cách đặt tiêu đề trên chỉ là gợi ý. Không phải tiêu đề nào cũng có đầy đủ các thành phần ở trên và vị trí sắp xếp các thành phần có thể thay đổi. Khi các bạn đã viết được nhiều bài rồi, các bạn sẽ biết cách đặt tiêu đề một cách hợp lý nhất cho bài viết của mình.
Một số ví dụ tiêu đề hay như “Identifying the moral–practical gaps in corporate social responsibility missions of Vietnamese firms: An event‐based analysis of sustainability feasibility” (Vuong, et al., 2021); “The emergence of private higher education in a communist state: the case of Vietnam” (Chau, et al., 2020); “Internationalizing Higher Education in Vietnam Insights from Higher Education leaders – an exploratory study” (Nguyen et al., 2016); và “Barriers to and facilitators of female Deans’ career advancement in higher education: an exploratory study in Vietnam” (Nguyen, 2013).
(Nguồn: Tạp chí Giáo dục)
Đón đọc phần 7: Một số lưu ý khi viết phần Tóm tắt (Abstract) của một bài báo khoa học

7. MỘT SỐ LƯU Ý KHI VIẾT PHẦN TÓM TẮT (ABSTRACT) CỦA MỘT BÀI BÁO KHOA HỌC
Ngoài tiêu đề (Title) thì Tóm tắt (Abstract) là phần đầu tiên người đọc biết đến bài viết của bạn. Với các tạp chí phải trả phí thì tóm tắt còn là phần duy nhất người đọc có thể tiếp cận. Tóm tắt là phần rất quan trọng để từ đó người đọc quyết định có đọc hết hoặc download bài viết của bạn hay không (có thể phải trả tiền đối với những tạp chí thu phí). Tóm tắt được coi là phiên bản thu nhỏ bài báo của bạn, do đó nó cần phải cung cấp những thông tin quan trọng như mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu (Belcher, 2019).
Mặc dù Tóm tắt là phần đầu tiên của một bài báo khoa học, nhưng đây lại là phần được nhiều người khuyên là nên viết cuối cùng, sau khi đã hoàn thành toàn bộ nội dung bài viết. Một số tạp chí yêu cầu viết Tóm tắt theo cấu trúc với các phần quy định cụ thể. Hầu hết các tạp chí đều yêu cầu về số từ của Tóm tắt, thường là từ 150-250 từ (tiếng Anh). Tuy nhiên, bạn cần tìm hiểu yêu cầu cụ thể số từ của Tóm tắt trong tạp chí mà bạn dự định gửi bài.
Với các tạp chí có yêu cầu về cấu trúc cụ thể của Tóm tắt, bạn bắt buộc phải viết Tóm tắt theo cấu trúc của họ. Còn với các tạp chí không yêu cầu cấu trúc cụ thể thì Tóm tắt có thể viết bao gồm những nội dung sau:
- Tóm tắt bối cảnh của nghiên cứu (Background);
- Tóm tắt mục đích/trọng tâm của nghiên cứu (Purpose/Focus);
- Tóm tắt phương pháp nghiên cứu (Methods);
- Tóm tắt kết quả nghiên cứu (Results/Findings);
- Tóm tắt kết luận (Conclusion);
- Tóm tắt đề xuất hoặc ứng dụng (Recommendations or Implications) (có thể không cần thiết).
Có một lưu ý nhỏ là một số nội dung trên có thể viết kết hợp với nhau, ví dụ kết hợp nội dung mục đích/trọng tâm của nghiên cứu với phương pháp nghiên cứu (Purpose + Methods) hoặc phương pháp nghiên cứu với kết quả nghiên cứu (Methods + Findings).
Các bạn có thể tham khảo một ví dụ dưới đây (Pham & Nguyen, 2020):
Quality assurance in higher education has been introduced in Vietnam to improve the quality of the entire sector. Academics are considered key players in the reform plan of the Vietnamese government (background). This paper discusses the development of the Vietnamese quality assurance approach in higher education reform and how it could be further developed to improve higher education based on an analysis of current practices related to academic staff development (purpose). Data collected from documentation and in-depth interviews with thirty-six participants from three universities have been analysed for patterns and themes (method). The results indicate that assuring the academic staff quality in Vietnam is an urgent need. The role of the quality assurance approach, however, seems to be limited in this aspect (findings). Therefore, it is suggested that the Vietnam quality assurance policies be re-visited to ensure that minimum standards are maintained and to promote institutional commitment to improve the quality of higher education (conclusion). (150 từ)
(Nguồn: Tạp chí Giáo dục)
Đón đọc phần 8: Một số lưu ý khi chọn từ khóa (keywords) cho bài báo khoa học

8. MỘT SỐ LƯU Ý KHI CHỌN TỪ KHÓA (KEYWORDS) CHO BÀI BÁO KHOA HỌC
Thông thường các tạp chí khoa học đều yêu cầu bài báo phải có từ khóa (keywords). Từ khóa thường bao gồm 3-5 từ/cụm từ (một số tạp chí có thể yêu cầu số lượng từ khóa từ 4-8) và được trình bày ngay sau phần Tóm tắt (Abstract). Mục đích của của việc lựa chọn các từ khóa là để độc giả dễ dàng tìm kiếm bài báo của bạn qua các công cụ tìm kiếm tự động (Google Scholar, Web of Science, Mendeley…). Như vậy, từ khóa phải được lựa chọn sao cho: (1) Làm nổi bật được nội dung bài viết của bạn, và (2) Trọng tâm vào lĩnh vực hoặc chuyên ngành nghiên cứu (Springer, n.d.).
Một số tác giả không để tâm nhiều đến lựa chọn từ khóa và thường sử dụng những từ đã có trong tiêu đề bài báo. Nếu tất cả hoặc hầu hết từ khóa chỉ là sự lặp lại những từ ở tiêu đề thì việc lựa chọn những từ khóa này không có nhiều ý nghĩa vì các công cụ tìm kiếm tự động đã xác định được những từ đó trong tiêu đề bài báo rồi.
Một số tạp chí yêu cầu từ khóa không được lặp lại các từ đã dùng trong tiêu đề bài báo. Tuy nhiên, số này rất ít. Nếu không có yêu cầu này, bạn có thể sử dụng một đến hai từ/cụm từ đã có trong tên bài. Bạn cũng có thể sử dụng các từ/cụm từ liên quan gần gũi tới chủ đề bài viết hoặc những thuật ngữ có thể dùng thay thế cho nhau. Ví dụ, bài viết về kiểm định chất lượng giáo dục đại học (higher education accreditation) thì có thể sử dụng các từ khóa liên quan như: bảo đảm chất lượng (quality assurance), tự đánh giá (self-assessment), đánh giá ngoài (external assessment). Bảng 1 trình bày ví dụ một số tên bài báo và các từ khóa. Ngoài ra, những từ viết tắt thông dụng trong lĩnh vực chuyên ngành cũng có thể được sử dụng, ví dụ TQM (total quality management), RME (realistic mathematics education), SME (small and medium enterprise).
Một lưu ý là trong việc lựa chọn từ khóa, bạn nên hạn chế dùng các từ đơn lẻ (single word) như “education” (giáo dục), “teaching” (dạy) và “students” (sinh viên). Chỉ khi những từ đơn lẻ có tính chất đặc thù thì mới nên sử dụng, ví dụ “neuroeducation” (giáo dục thần kinh), “nanotechnology” (công nghệ nano), “gamification” (trò chơi điện tử hóa) (Lamanauskas, 2019).
(Nguồn: Tạp chí Giáo dục)
Đón đọc phần 9: Cấu trúc và một số lưu ý khi viết phần Đặt vấn đề (Introduction)



 9. CẤU TRÚC VÀ MỘT SỐ LƯU Ý KHI VIẾT PHẦN ĐẶT VẤN ĐỀ (INTRODUCTION)

Đặt vấn đề (Introduction) là phần chính đầu tiên của một bài báo khoa học. Đây là phần bạn giải thích với độc giả tại sao bài viết của bạn, vấn đề nghiên cứu của bạn thực sự thú vị và đáng để đọc. Đặt vấn đề đóng vai trò định hướng cho độc giả, cung cấp những khía cạnh ban đầu họ cần biết để từ đó có thể hiểu được những thông tin chi tiết sẽ được thảo luận đến ở những phần sau. Mục đích chính của phần Đặt vấn đề là cung cấp đủ thông tin cho độc giả để họ có thể hiểu được tầm quan trọng của nghiên cứu và những lập luận của bạn (Belcher, 2019).
Có nhiều cách để viết phần Đặt vấn đề. Tuy nhiên, cách tiếp cận triển khai phần Đặt vấn đề theo hình phễu (funnel-shaped introduction, Hình 1) được cho là hợp lý và được nhiều người sử dụng. Theo cách này thì những khía cạch chung nhất liên quan đến nghiên cứu sẽ được trình bày trước. Tiếp đó, qua từng câu và từng đoạn văn, nội dung thông tin sẽ được trình bày hẹp dần và chi tiết hơn.
Cấu trúc phần Đặt vấn đề gồm 5 nội dung/ thành tố (component) được nhiều người áp dụng. Cụ thể:
- Nội dung 1: Trình bày thông tin chung về lĩnh vực hoặc chủ đề nghiên cứu (broad theme or topic of the study) hoặc trình bày về bối cảnh nghiên cứu (background).
- Nội dung 2: Trích dẫn những thông tin cụ thể hơn của các nghiên cứu trước đây liên quan đến nghiên cứu của bạn (cite the most important previous studies that are relevant to your research).
- Nội dung 3: Chỉ ra những khoảng trống (gap) hay những điểm, những vấn đề mà các nghiên cứu trước đây chưa đề cập đến hoặc những điều cần nghiên cứu thêm. Từ đó, trình bày đóng góp chính (main contribution) mà nghiên cứu của bạn hướng đến.
- Nội dung 4: Trình bày rõ ràng những điểm sau: (1) vấn đề hoặc câu hỏi nghiên cứu trọng tâm (core research problem/question); (2) những mục tiêu nghiên cứu cụ thể (specific research objectives); và (3) bối cảnh (context) mà trong đó nghiên cứu được triển khai.
- Nội dung 5 (có thể không cần): Trình bày phác thảo những nội dung chính các phần tiếp theo của bài báo (outline the structure of the rest of the paper).
Tất nhiên không phải phần Đặt vấn đề nào cũng thể hiện rõ và tách biệt được 5 nội dung trên. Các nội dung này có thể nằm đan xem nhau hoặc hai nội dung có thể được tích hợp với nhau.
Lưu ý là phần Đặt vấn đề thường chiếm 1/8 bài báo. Như vậy, với các bài viết có độ dài 4000 – 8000 từ thì phần Đặt vấn đề có thể có độ dài 500 – 1000 từ tương ứng.
(Nguồn: Tạp chí Giáo dục)
Đón đọc phần 10: Cấu trúc và một số lưu ý khi viết phần Tổng quan nghiên cứu (Literature review)


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

KHÁI NIỆM DỮ LIỆU CÁ NHÂN VÀ GÓC NHÌN TỪ GDPR

Quyền được lãng quên từ thực tiễn phán quyết trong phạm vi Liên minh Châu Âu

Bảo vệ dữ liệu cá nhân: Nghị định mới, tấm khiên mới