NHẬN DIỆN CÁC ĐIỀU KHOẢN BẤT LỢI ĐỐI VỚI NGƯỜI ĐI VAY TRONG THỎA THUẬN VAY TIÊU DÙNG VỚI CÔNG TY TÀI CHÍNH
NHẬN
DIỆN CÁC ĐIỀU KHOẢN BẤT LỢI ĐỐI VỚI NGƯỜI ĐI VAY TRONG THỎA THUẬN VAY TIÊU DÙNG
VỚI CÔNG TY TÀI CHÍNH
Bạch
Thị Nhã Nam
Giảng
viên Khoa Luật, Trường đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG Tp.Hồ Chí Minh, NCS ĐH
Griffith, Úc
Email: nambtn@uel.edu.vn
Tóm
tắt:
Cho vay tiêu dùng đang phát triển nhanh ở Việt Nam nhưng cũng tiềm ẩn
nhiều rủi ro pháp lý đối với các bên trong quan hệ cho vay tiêu dùng, nhất là
trước sự ra đời và phát triển của các công ty tài chính hiện nay. Với mục đích vay được khoản tiền và được giải ngân nhanh chóng, người
đi vay thường thực hiện theo các yêu cầu của bên cho vay và chấp nhận các điều
kiện thỏa thuận, mà đôi khi bỏ qua việc đọc nội dung các điều khoản trong hợp đồng
vay tín dụng tiêu dùng. Trong bài viết này, tác giả sẽ rà soát các hợp đồng vay
tín dụng tiêu dùng trên thực tiễn và nhận diện một số điều khoản gây ra các rủi
ro pháp lý hoặc bất lợi nhất định đối với người tiêu dùng, và tác giả đưa ra
các lưu ý đối với bên đi vay tín dụng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật.
Từ
khóa:
cho vay, tiêu dùng, rủi ro…
Abstract:
Consumer
lending is growing rapidly in Vietnam, but there are also potential legal risks
for the parties in the consumer lending relationship, especially before the
advent and development of the financial companies. For the purpose of obtaining
a loan and being disbursed quickly, borrowers often follow the lender's requirements
and accept the standard terms, sometimes skipping reading the terms of consumer
credit contract. In this article, the author will review consumer credit loan
contracts in practice and identify a number of provisions posing certain legal
risks or disadvantages to consumers. Given on that, the author gives issue
notes to credit borrowers and propose solutions to improve the law.
Keywords:
lending, consumption, risk…
1.
Vài
nét về thực tiễn cho vay tiêu dùng của các công ty tài chính tại Việt Nam
Cho vay tiêu dùng đang
phát triển khá nhanh ở Việt Nam mặc dù đây là một hình
thức còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Thuật ngữ cho vay theo Luật các Tổ
chức tín dụng (TCTD) thì được hiểu là quan hệ cấp tín dụng giữa một bên là các tổ chức tín dụng (bên cho vay)
và một bên là cá nhân, tổ chức (bên đi vay) nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn cho các chủ thể này trong một thời gian nhất định theo
thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.[1]
Cho vay tiêu dùng thuộc một
trong các loại quan hệ cho vay, trong đó bên cho vay là tổ chức cấp tín dụng gồm các công ty tài chính và ngân hàng thương mại, bên đi vay là các khách hàng cá nhân vay một khoản
tiền không nhằm mục đích kinh doanh,
sản xuất mà để mua sắm hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của cá
nhân, hộ gia đình trong một hạn mức tín dụng và thời hạn nhất định.
Ví dụ về một số sản phẩm của cho vay tiêu dùng có thể kể tới
như: vay mua xe máy, xe ô tô, vay mua thiết bị điện tử, vay để du học nước ngoài…
Trong trường hợp bên cho
vay là các công ty tài chính (CTTC)[2] thì hoạt động này được hiểu là việc CTTC cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng là cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu vốn mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục
đích tiêu dùng của khách hàng, gia đình của khách hàng đó với tổng dư nợ cho
vay tiêu dùng đối với một khách hàng tại CTTC đó không
vượt quá một trăm triệu đồng.[3]
Hiện nay, hoạt động cho
vay tiêu dùng của các CTTC rất sôi động vì nhu cầu mua nhà, mua xe của các
khách hàng có thu nhập trung bình rất cao. Do đó, ngày
càng nhiều CTTC thành lập và tham gia thị trường
tín dụng tiêu dùng, và tạo nên mức tăng trưởng lợi nhuận nhanh chóng trong lĩnh
vực này. Thị phần của nhóm công
ty tài chính tiêu dùng trong tổng tín dụng tiêu dùng đã tăng đáng kể, từ mức 1%
năm 2011, lên mức 16,3% năm 2020, tính đến cuối năm 2020, đã có 16 công ty tài
chính đăng ký hoạt động, với tổng vốn điều lệ khoảng 22 nghìn tỷ đồng.[4] Tăng trưởng bình quân của
cho vay tiêu dùng giai đoạn 2010-2020 đạt 33,7%, trong khi tốc độ tăng dư nợ
tín dụng chung toàn nền kinh tế đạt 17,3%.[5]
Việc vay tín chấp ở CTTC dễ
hơn so với vay ngân hàng thương mại vì không cần phải có tài sản đảm bảo. So với các hồ sơ vay tại ngân hàng, các CTTC không yêu cầu chặt chẽ về việc chứng minh tài chính, xác
minh nhu cầu tiêu dùng hoặc các thủ tục liên quan khác, thời gian giải ngân
cũng nhanh hơn và trong nhiều trường hợp khi mua sắm tài sản thì giải ngân ngay
sau khi ký hợp đồng.
Vậy nên dù tốc
độ phát triển khá nhanh, nhưng hoạt động này tiềm ẩn nhiều rủi ro pháp lý đối với
cả CTTC và khách hàng cá nhân. Về phía CTTC, để đáp ưng nhu cầu của
các cá nhân, các hồ sơ tín dụng tiêu dùng thường ít bao gồm các giấy tờ, ít thủ
tục chứng minh, không có tài sản đảm bảo, dựa hoàn toàn vào uy tín về năng lực
trả nợ của cá nhân. Điều này dẫn tới việc thẩm định năng lực tài chính và khả
năng trả nợ của người vay thường không được chính xác, gây ra nhiều rủi ro cho CTTC
cấp tín dụng trong việc không thu hồi được nợ vay và lãi vay.
Ngược lại, về
phía người đi vay, dù giá trị khoản vay nhỏ, đôi khi người đi vay phải trả lãi
rất cao, bị quấy nhiễu và đe dọa để trả nợ vay, bị lạm dụng các thông tin cá
nhân, hoặc không được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về hợp đồng, các điều
kiện giao dịch, và bị buộc phải tham gia bảo hiểm cho khoản vay.
Vì là bên yếu
thế trong quan hệ cho vay, nên người vay tiêu dùng đôi khi không lường được các
rủi ro từ các điều khoản được soạn sẵn trong hợp đồng theo mẫu[6] hay điều
kiện giao dịch chung[7] của CTTC,
đặc biệt các điều khoản về lãi suất, điều khoản tham gia bảo hiểm khoản vay,
phí phạt khi thanh toán trễ hạn…
Với mục đích
vay được khoản tiền và được giải ngân nhanh chóng nhất có thể, người đi vay thường
thực hiện theo các yêu cầu của CTTC, chấp nhận các điều kiện thỏa thuận, mà đôi
khi người đi vay không đọc kỹ nội dung trong hợp đồng vay tín dụng tiêu dùng.
Trong phần tiếp
theo của bài viết, tác giả sẽ rà soát các hợp đồng vay tín dụng tiêu dùng trên
thực tiễn và nhận diện một số điều khoản gây ra các rủi ro pháp lý hoặc bất lợi
nhất định đối với người tiêu dùng, và tác giả lưu ý đối với bên đi vay tín dụng
và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
2.
Đánh giá rủi ro đối với điều khoản lãi suất trong hợp
đồng cho vay tiêu dùng và khuyến nghị
Lãi suất cho vay tiêu dùng
Theo quy định hiện hành, căn cứ theo khoản 2 Điều 7 Nghị quyết
01/2019/NQ-HĐTP[8]
các tổ chức tín
dụng được tự do thỏa thuận lãi
vay với bên đi
vay trong hợp đồng tín dụng và phải tuân thủ quy định của Luật các TCTC và các văn bản
hướng dẫn luật này, đồng thời không áp dụng quy định giới hạn lãi suất vay tại Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 để xác định lãi, lãi suất. Do đó, hệ lụy của quy định này là xảy ra tình trạng các CTTC áp mức lãi suất vay tiêu dùng rất cao, thực tế một số CTTC áp dụng mức lãi suất cho vay tiêu
dùng với một số khoản vay lên tới 60%-70%năm, tức là gần xấp xỉ tới việc tính
lãi bằng nợ gốc.
CTTC |
Home Credit |
Fe
Credit |
HD
Saison |
Mirae Asset |
Shinhan |
Lãi vay (%/năm) |
16.22-69.96 |
0-68,94 |
12,84-13,08 |
19.26-76.04 |
8.49-11.99 (Ô tô) |
Bảng
1.Lãi suất cho vay tiêu dùng tại một số công ty tài chính [9]
Lãi suất cho vay tiêu dùng ở các CTTC thường cao hơn
nhiều so với các ngân hàng, trong khi mức lãi suất vay tiêu dùng tại các Ngân
hàng dao động trong khoảng 10-15%/năm.[10] Trên thực tế, mức lãi suất cho vay tiêu dùng
của Việt Nam so với thế giới đang nằm ở mức trung bình (20-50%).[11]
Hiện lãi suất cho vay tiêu dùng của Việt Nam dao động ở một dải rất rộng tùy vào đối
tượng khách hàng, tùy từng sản phẩm vay,
theo kết quả khảo sát của Ngân
hàng nhà nước tại một số địa phương thì lãi vay phổ biến mà các CTTC áp dụng từ 40 - 50%/năm, một số trường
hợp lãi suất cho vay lên đến 85%/năm
tùy theo sản phẩm.[12]
Việc một số CTTC áp dụng mức lãi suất cho vay tiêu dùng cao đã tạo ra những rủi ro
đáng lo ngại cho bên đi vay về
khả năng trả nợ và lãi đối với khoản vay, nếu như họ không thể đo lường chính xác khả năng
tài chính của bản thân trước khi thực hiện vay tín dụng tiêu dùng. Do đó, cần
có sự can thiệp nhất định từ cơ quan nhà nước để cân đối phù hợp giữa rủi ro
cho vay đối với các CTTC và lãi suất cho vay cao đối với bên đi vay.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP 87 về việc quy định các bên trong hợp đồng tín dụng được thỏa thuận tự do lãi vay và phải tuân thủ quy định của Luật các TCTD và các văn bản hướng
dẫn luật này, đồng thời không áp dụng quy định giới hạn lãi suất vay tại BLDS 2015
để xác định lãi, lãi suất. Xét
về mặt pháp lý, việc áp mức lãi cao vẫn phù hợp với khung pháp luật hiện tại, vì chưa vượt quá 5 lần so với
mức lãi suất cao nhất – 20%/năm trong Bộ luật Dân sự 2015,[13]
và do đó và cũng không vi phạm
quy định về tội cho vay nặng lãi theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành tại Điều
201.[14]
Tuy nhiên, các nhà làm luật nên cân nhắc việc can
thiệp phù hợp để cân bằng lợi ích của các bên trong quan hệ cho vay. Đối với
CTTC, đó là rủi ro cho vay, không thu hồi được nợ và lãi, đối với bên đi vay là
lãi suất cao ảnh hưởng đến khả năng tài chính trong việc trả nợ và lãi vay, lãi
vay cao có thể tác động đến đời sống và kế hoạch tài chính của của bên đi vay.
Xem ra khung pháp lý hiện tại vẫn chưa
đủ sức mạnh để kịp thời kiểm soát việc các CTTC áp lãi suất cao đối với người vay tiêu dùng, và liệu người đi vay có
đủ khả năng tính toán để có thể đo lường khả năng chi trả khoản vay không? Làm thế nào để giảm thiểu sự bất lợi cho bên đi vay, vì họ là những
người cần vốn, nên khó có thể có khả năng đàm phán thay đổi lãi suất đối với
các CTTC. Đặc biệt CTTC có khả năng áp đặt lãi suất khi họ cung cấp cho bên đi
vay các hợp đồng vay tín dụng tiêu dùng là các hợp đồng theo mẫu, được soạn sẵn,
khách hàng cá nhân chỉ việc ký đồng ý vào hợp đồng mới có thể tiếp cận các
khoản vay tài chính tiêu dùng của CTTC.
Giải pháp áp trần lãi suất
Kinh nghiệm tại một số quốc gia tại Châu Âu, họ quy
định trần lãi suất đối với hợp đồng tín dụng tiêu dùng ví dụ như: Bỉ, Đức,
Pháp, Tây Ban Nha, … được tính căn cứ theo lãi suất thị trường trung bình hoặc
lãi suất cơ bản.[15] Ba lý do chính được các quốc
gia này đưa ra để hạn chế bên cho
vay xây dựng lãi suất cao trong một báo cáo nghiên cứu của Ngân hàng thế
giới World Bank là: (1)
chấm dứt sự lạm dụng áp đặt lãi suất của
bên cho vay, (2) kiểm soát tỷ lệ nợ quá
hạn, nợ xấu phát sinh do lãi cao nên bên đi vay không thể hoàn trả, (3) giảm thiểu hành vi chấp nhận rủi
ro đối với bên cho vay.[16]
Tại Nhật Bản, Luật hạn chế lãi suất năm 1954 được đặt
ra lãi suất cho vay dựa trên quy mô khoản vay, với tỷ lệ tối đa 20 phần trăm.
Luật Lãi suất tiền gửi, sửa đổi lần cuối năm 2000 đã
giới hạn lãi suất đối với các khoản vay tiêu dùng
không có tài sản bảo đảm ở mức 29,2 %/ năm với điều kiện là bất kỳ tỷ lệ nào
vượt quá 20%/năm, bên cho vay cần đạt được sự đồng ý bằng văn bản của người đi vay.
Hầu hết các CTTC của Nhật Bản hoạt động trong lĩnh vực này đưa ra lãi suất ở
khoảng giữa từ 20% - 29,2%/ năm.[17]
Do đó, pháp luật Việt Nam nên áp đặt quy định giới hạn
mức trần lãi suất đối với các khoản vay tiêu dùng trong các hợp đồng cho vay
tiêu dùng nhằm khắc phục tình huống bất lợi của bên đi vay khi dường như họ
không có khả năng đàm phán lãi suất. Việc quy định lãi suất trần đối với các
CTTC ở đây là cần thiết trong bối cảnh thị trường cho vay tiêu dùng ở Việt Nam
đang phát triển mạnh, có dấu hiệu lạm dụng sự tự do trong việc đưa ra lãi suất
cho vay, Việt Nam nên tham khảo cách quy định của các thị trường tín dụng ở các
quốc gia phát triển đối với vấn đề này.
Giải pháp ràng buộc nghĩa vụ pháp lý “hành vi cho vay
có trách nhiệm”
Đạo luật Bảo vệ người vay tiêu dùng năm 2009 của Úc (The National
Consumer Credit Protection Act 2009)[18]
yêu cầu cá nhân được cấp phép hoạt động hỗ trợ, tư vấn cho vay tiêu dùng (có thể hiểu là người môi giới tín dụng) phải thực hiện các hành vi cho
vay có trách nhiệm (responsible lending conducts)
khi tiếp xúc, hỗ
trợ người đi vay tín dụng tiêu dùng. Quy định này nhằm bảo vệ người tiêu dùng, tránh cho người đi vay tín dụng tiêu dùng giao
kết các hợp đồng tín dụng không phù hợp với tình hình và khả năng tài chính của
họ.
Theo đó, người môi giới tín dụng tham gia hoạt động hỗ
trợ cho vay tiêu dùng phải được cấp phép hoạt động, họ phải cung cấp thông tin đầy đủ trước khi hỗ trợ cho
vay đối với người tiêu dùng, và họ phải có trách nhiệm đánh giá sơ bộ liệu hợp đồng tín dụng định giao kết (bao
gồm yếu tố lãi suất) có phù hợp
với người đi vay tín dụng. Để làm được
điều này, người môi
giới tín dụng phải có kiến thức chuyên môn, có
giấy phép hoạt động môi giới tín dụng, để thực hiện xác minh yêu cầu, mục tiêu và tình hình tài
chính của người
đi vay tiêu dùng (được hiểu là người tiêu
dùng), đánh giá xem người tiêu dùng có phù hợp với khoản vay tín dụng, hoặc nếu hạn mức tín dụng tăng lên trong thời gian vay. Người môi giới tín dụng
phải cung cấp cho người tiêu dùng một bản sao đánh giá sơ bộ nếu được yêu cầu. Hợp đồng tín dụng không
phù hợp với người tiêu dùng nếu tại thời điểm đánh giá sơ bộ, có khả năng:
(a) Người
tiêu dùng sẽ không thể tuân thủ các nghĩa vụ tài chính theo hợp đồng hoặc chỉ
có thể tuân thủ nghĩa vụ trong các tình huống
rất khó khăn (ví dụ: không thể trả nợ hay chỉ có thể trả được bằng cách bán
đi các tài sản quan trọng thiết yếu như nhà ở của
người tiêu dùng...) hoặc là
(b) Hợp
đồng sẽ không đáp ứng các yêu cầu hoặc mục tiêu của người tiêu dùng nếu người
tiêu dùng vẫn tiếp tục hợp đồng trong khoảng thời gian đánh giá sơ bộ
Trong trường hợp khoản vay tín dụng là số tiền vay nhỏ
(thường không vượt quá 2.000 đô la Úc hoặc thỏa mãn các yếu tố khác như thời
gian khoản vay – tối thiểu là 16 ngày, tối đa không quá 365 ngày, không phải là
khoản vay liên tục…), việc đánh giá sơ bộ cần phải xem xét một trong hai điều kiện
sau: (1) tại thời điểm được tư vấn hỗ trợ tín dụng: (i) người tiêu dùng có phải là bên đi vay một khoản vay tín dụng nhỏ
khác; và (ii) người tiêu dùng không có khả năng thanh toán đối với khoản vay
tín dụng trong hợp đồng tín dụng khác đó; (2) trong khoảng thời gian 90
ngày trước thời điểm được tư vấn hỗ trợ tín dụng, người tiêu dùng đã là bên đi
vay của 2 hoặc nhiều hợp đồng tín dụng với số tiền vay nhỏ khác. Sau đó, người
môi giới cần đánh giá liệu người tiêu dùng chỉ có thể tuân thủ các nghĩa vụ tài
chính theo hợp đồng có liên quan với những khó khăn đáng kể như bán nhà ở, trừ
khi người tiêu dùng chứng minh điều ngược lại.
Như vậy trước khi gợi ý, giúp đỡ hay
ký hợp đồng, người môi giới tín dụng phải: i) cung cấp
thông tin đầy đủ về giấy phép, phí tư vấn, phương thức giải quyết tranh chấp
ii) Thu thập thông tin hợp lý về những
yêu cầu,
mục tiêu, tình hình tài chính của người vay ii) Tiến hành các
bước hợp lý nhằm thẩm tra/đánh giá sơ bộ về sự phù hợp giữa người tiêu dùng và hợp đồng tín dụng định giao kết; iv) Cung cấp cho người đi vay bản sao kết quả đánh
giá nếu họ yêu cầu.
Với các đánh giá sơ bộ rằng hợp đồng
tín dụng, khoản vay tín dụng không phù hợp với người đi vay, người môi giới tín
dụng không thể tư vấn người đi vay tiếp tục duy trì các hợp đồng tín dụng không
phù hợp, người môi giới không được gợi ý vay, hỗ trợ làm hồ sơ vay hay ký hợp
đồng tín dụng và cho thuê tài chính nếu không phù hợp với người đi vay. Các hành vi cho vay tín dụng vô trách nhiệm sẽ chịu các
chế tài dân sự, và thậm chí là bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc
thiết lập các quy định cho vay tín dụng có trách nhiệm đã ràng buộc các nghĩa
vụ pháp lý nhất định với bên môi giới tín dụng để họ không tùy tiện tư vấn
khoản vay tiêu dùng, hạn chế các tình huống giao kết hợp đồng tín dụng vượt quá
khả năng trả nợ của người tiêu dùng.
Thiết
nghĩ, Việt Nam nên bổ sung thêm các quy định tương tự nhằm nâng cao trách nhiệm
pháp lý của bên thứ ba khi tham gia vào quá trình tư vấn tín dụng tiêu dùng.
Bên thứ ba cung cấp dịch vụ này có thể là các cá nhân được cấp phép thực hiện
dịch vụ môi giới tín dụng trong tương lai tại Việt Nam, họ đồng thời cũng có
thể là các nhà cung cấp dịch vụ hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng, hoặc là
nhân viên của các công ty tài chính, các tổ chức tín dụng…Các quy định này giúp
cho thị trường tín dụng tiêu dùng lành mạnh hóa hơn, chuyên nghiệp hơn, hạn chế
các tình huống người đi vay tín dụng không hiểu biết về tài chính, không thể tự
đánh giá khả năng trả nợ cho các khoản vay tín dụng tiêu dùng…
3. Đánh giá rủi ro từ điều khoản phạt vi phạm khi chậm trả và khuyến
nghị
Rà soát qua một
số thỏa thuận và điều khoản điều kiện vay tín dụng tiêu dùng, có những điều khoản
quy định về việc cho phép phạt vi phạm khi chậm trả.
Ví dụ: “Mức phạt đầu tiên nếu Quý khách không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của Hợp đồng kể từ ngày thứ
tư (04) sau ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ đó, thì mức phạt là (X) đồng. Mức
phạt phát sinh thêm lần 2 sau mức phạt đầu tiên nếu Quý khách
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của Hợp đồng kể
từ ngày thứ ba mươi (30) sau ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ đó, thì mức phạt
là (Y) đồng. Mức phạt phát sinh thêm lần 3 sau mức phạt đầu tiên & lần 2 nếu
Quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của Hợp
đồng kể từ ngày thứ sáu mươi (60) sau ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ đó, thì mức
phạt là (Z) đồng.”[19]
Với cách quy
định như ví dụ, thì việc bên đi vay chậm trả nợ và lãi vay thì sẽ bị phạt. Phạt vi phạm hợp đồng là
một trong những hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng, theo đó bên vi phạm hợp
đồng phải trả cho bên bị vi phạm hợp đồng một khoản tiền nhất định do pháp luật
quy định hoặc do các bên thỏa thuận trên cơ sở pháp luật, nhằm kịp thời điều chỉnh và bảo vệ quyền lợi của các bên trong các quan hệ hợp đồng hợp tác
thương mại. Luật TM năm 2005 quy định về phạt vi phạm như sau: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu
bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có
thỏa thuận”.[20]
BLDS năm 2015 quy định “Phạt vi phạm là sự
thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một
khoản tiền cho bên bị vi phạm”. Các quy định này cho thấy, điều kiện áp dụng
phạt vi phạm là: hợp đồng phải có hiệu lực, có hành vi vi phạm hợp đồng, có thỏa
thuận áp dụng phạt vi phạm.
Như vậy, phạt
vi phạm là một nội dung của hợp đồng nên các thỏa thuận nhất thiết phải được
ghi cụ thể trong hợp đồng để làm cơ sở giải quyết cho các bên sau này; và do
các bên thỏa thuận trong nội dung trong hợp đồng. Hiện nay, theo quy định của
BLDS 2015 về mức phạt vi phạm được áp dụng cho các quan hệ dân sự thì mức phạt
vi phạm do các bên tự thỏa thuận,[21] theo đó
mức phạt vi phạm có thể rất cao hoặc thấp, tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các
bên trong hợp đồng.[22] Tuy
nhiên, nếu quan hệ hợp đồng chịu sự điều chỉnh của Luật Thương Mại 2005, tức
các quan hệ thương mại đó là “Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác”,[23]
thì điều khoản về phạt vi phạm thì sẽ
áp dụng mức phạt vi phạm tối đa là 8%.[24]
Tóm lại, với
cách quy định số tiền phạt cụ thể cho các lần phạt vi phạm (X đồng, Y đồng, Z đồng) và nhiều lần phạt,
thì có thể dẫn đến khả năng số tiền phạt vi phạm vượt quá mức quy định 8% phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Đây là một điều khoản có khả năng tạo ra những
nghĩa vụ pháp lý đóng phạt vượt quá giới hạn quy định pháp luật mà bên đi vay
có thể không nhận biết được khi giao kết, thực hiện hợp đồng, hoặc ngay cả khi
vi phạm nghĩa vụ, và thực hiện đóng phạt.
3. Đánh giá rủi ro đối với việc bên đi vay chi trả các khoản phí
khác liên quan đến khoản vay tín dụng tiêu dung và khuyến nghị
Nhà kinh tế học Geraint G. Howells, I. Ramsay cho
rằng nhà nước can thiệp vào lãi suất vay của các TCTD có thể không đạt được mục
đích bảo vệ bên yếu thế khi các tổ chức này có thể gia tăng các mức phí khác liên
quan tới giao dịch vay hoặc đặt ra những biện pháp thắt chặt tín dụng, hạn chế sự tiếp cận khoản vay của bên vay.[25] Trên thực tiễn, một số
CTTC đã đặt thêm các khoản phí khác đối với bên đi vay trong các hợp đồng cho
vay tiêu dùng. Một trong những khoản phí khác có thể phát sinh trong hợp đồng cho
vay tiêu dùng là phí trả nợ trước hạn. Phí trả nợ trước hạn được xác định bằng
một tỷ lệ phần trăm của số nợ gốc còn lại tại thời điểm trả nợ trước hạn, nếu
khách hàng trả nợ trước kỳ hạn phải trả cho các TCTD một khoản lãi trả nợ trước hạn cho TCTD.
Đây
là một ví dụ về phí trả nợ trước hạn được quy định trong các hợp đồng cho vay
tiêu dùng: “Bên vay thanh toán đầy đủ khoản trả hàng tháng của kỳ có yêu cầu trả nợ
trước hạn và các khoản thanh toán khác phát sinh tính đến ngày trả nợ trước hạn,
cộng (+) với số tiền gốc còn lại tính từ kỳ trả nợ tiếp theo kỳ có yêu cầu trả
nợ trước hạn và cộng (+) phí trả nợ trước
hạn. Nếu Bên vay không đồng ý với số tiền phí trả nợ trước hạn, Bên vay phải
trả toàn bộ lãi vay cho toàn bộ thời
gian vay còn lại theo quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành.”[26]
Tại
khoản 2 Điều 470 BLDS 2015 và Điều 18 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy
định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
đối với khách hàng, pháp
luật cho phép các bên được tính phí khi bên vay trả nợ trước hạn trong hợp đồng
vay, lãi suất phí trả nợ trước hạn sẽ do hai bên tự thỏa thuận. Thực chất, đây được coi
là khoản tiền phạt khi bên vay thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình (trả
trước hạn), làm tổn thất lợi nhuận mà đáng lẽ TCTD nhận được nếu bên vay trả đúng hạn. Tham khảo một số khoản phí trả trước hạn - tính theo tỷ lệ phần trăm trên tổng số nợ chưa trả của một số CTTC như sau:
CTTC |
Home Credit |
Fe Credit |
HD Saison |
Mirae Asset |
Shinhan |
Phí trả trước hạn |
Thỏa thuận theo HĐTD |
5% khoản vay còn lại |
6% khoản vay còn lại |
5%-8% số tiền
trả nợ trước hạn |
1%-3% tiền nợ gốc trả trước hạn |
Bảng 2. Mức phí trả trước hạn tại một
số CTTC[27]
Ngoài khoản phí trả trước, bên vay còn phải chịu thêm nhiều khoản phí khác,
ví dụ phí công chứng, phí giao tài liệu, phí cung cấp bản sao hợp đồng, phí phát
hành thư xác nhận khoản
vay… Nếu cộng gộp cả với phí trả trước
thì tổng số phí mà người
vay có thể chịu là khá lớn.
Việc quy định cho phép các bên tự do thỏa thuận về mức
lãi suất trả trước này là không phù hợp, vì thực tế phía TCTD có thể áp mức phí cao.
Liên hệ cách tiếp cận của pháp luật Nhật Bản tới quy định về phí trong hợp đồng
vay, thì tại Điều 3, Đạo luật hạn chế lãi suất (Interest Rate Restriction Act
No. 100 of 1954) quy định rằng: “Bất kể món tiền nào khác ngoài nợ gốc, dù là phần thưởng, phí giảm giá, phí
hoa hồng, phí kiểm tra, hoặc dưới các tên khác, chủ nợ nhận được liên quan đến
món nợ cho vay, đều được tính là lãi suất; miễn là việc này sẽ không áp dụng
đối với các chi phí như chi phí giao kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng.”[28]
Theo các quy định này, các khoản phí sẽ nằm trong phần lãi suất mà bên
vay phải trả, theo đó pháp luật hiện hành của Nhật Bản đang đứng về phía người đi vay nhằm ngăn chặn tình trạng các CTTC tính nhiều loại phí với số tiền lớn cho khách hàng của họ.
Hiện nay các CTTC tại Việt Nam được cho phép
tự do làm chủ các khoản phí liên quan tới hợp đồng vay, và họ thực hiện theo hướng
tách rời các loại phí và lãi suất. Đây là rủi ro bất lợi cho người đi vay tiêu
dùng, khi ngoài việc trả nợ và lãi của khoản vay, người đi vay tiêu dùng còn
phải trả thêm các loại phí khác liên quan đến khoản vay bên cạnh các chi phí
giao kết hợp đồng. Nếu Việt Nam tiếp cận vấn đề về các loại phí vay tương tự
như của Nhật Bản, bằng cách coi các khoản phí khác liên quan đến khoản vay (phí trả nợ trước hạn, phí
kiểm tra…) là một phần của lãi
suất mà bên vay phải trả sau đó đưa ra lãi suất trần chung (áp dụng cả phí và
lãi) thì sẽ hạn chế được tình trạng các CTTC đưa ra các mức phí cao, đồng thời
đưa ra các hạn mức nhất định đối với các bên trong hợp đồng cho vay tiêu dùng để
giúp người đi vay xác định được rõ số tiền tối đa mà mình phải bỏ ra trong giao
dịch vay này.
4. Đánh giá rủi ro đối với việc tham gia bảo hiểm khoản vay tiêu dùng
và khuyến nghị
Nghiên cứu các giao dịch vay tiêu dùng hiện nay, hầu hết
người đi vay phải trả thêm một khoản bảo hiểm đối với khoản vay, và hợp đồng
bảo hiểm khoản vay được xem như là một phần trong hợp đồng cho vay tiêu dùng.
Xem xét chọn mẫu Bản Điều khoản Điều kiện Cho vay[29]
của Công ty Tài chính Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPB FC) được xem là một
phần không tách rời Hợp đồng tín dụng được ký giữa VPB FC và Bên đi vay, dễ
dàng nhận thấy các điều khoản liên quan đến bảo hiểm khoản vay tiêu dùng:
“Bảo hiểm dư nợ tín dụng cá nhân (“Bảo hiểm”) có nghĩa là loại hình bảo
hiểm cho khoản vay của Khách hàng tại VPB FC, do Công ty Bảo hiểm cung cấp.”
“Phí Bảo Hiểm: là số tiền phí Khách hàng phải thanh toán cho Công ty bảo
hiểm cung cấp dịch vụ bảo hiểm dư nợ tín dụng cá nhân theo quy định của Công ty
bảo hiểm. VPB FC sẽ cho Khách hàng vay tiền để thanh toán Phí Bảo Hiểm và Phí Bảo Hiểm được
VPB FC đại diện Khách hàng thanh toán cho Công ty bảo hiểm cung cấp dịch vụ bảo
hiểm dư nợ tín dụng.” Trên
thực tiễn, khi người đi vay muốn vay X đồng, thì thực tế người đi vay được giải
ngân là (X đồng - phí bảo hiểm).
“Phạm vi của bảo hiểm Trong thời hạn bảo hiểm, Công ty bảo hiểm sẽ chi
trả khoản dư nợ gốc còn lại tại ngày phát sinh Sự kiện bảo hiểm và khoản lãi
phát sinh từ ngày trả lãi gần nhất theo lịch biểu trả nợ đến ngày phát sinh Sự
kiện bảo hiểm ngoại trừ: a. Các khoản trả nợ vay hàng tháng và lãi cộng dồn phải
trả theo lịch biểu trả nợ trước ngày phát sinh Sự kiện bảo hiểm mà Người được
bảo hiểm không trả; b. Bất kỳ các khoản phạt phát sinh, theo quy định của HĐ
này do việc không trả nợ của Người được bảo hiểm cho Người thụ hưởng cho các sự
kiện bảo hiểm sau đây xảy ra nếu không thuộc điểm loại trừ: - Người Được Bảo
Hiểm tử vong; - Người Được Bảo Hiểm bị Thương tật toàn bộ vĩnh viễn; - Người
Được Bảo Hiểm bị Mất tích.”
Các bên tham gia vào quan
hệ bảo hiểm dư nợ tín dụng cá nhân gồm Công ty bảo hiểm, Bên mua bảo hiểm (đồng
thời là người được bảo hiểm): là khách hàng vay tiêu dùng, và Đại lý bảo hiểm
(đồng thời là người thụ hưởng): VPB FC.
Ngoài tư cách là người thụ
hưởng lợi ích bảo hiểm, CTTC còn là đại lý bảo hiểm, CTTC sẽ nhận thêm một khoản
hoa hồng đại lý bảo hiểm từ Công ty bảo hiểm đối với hợp đồng bảo hiểm dư nợ
tín dụng cá nhân. Về bản chất khoản hoa hồng đại lý bảo hiểm được trích từ khoản
phí bảo hiểm mà người vay tiêu dùng phải trả cho hợp đồng bảo hiểm dư nợ tín dụng
cá nhân đính kèm theo hợp đồng vay tiêu dùng. Như vậy, CTTC nhận thêm được lợi
ích khi người đi vay mua bảo hiểm tín dụng khoản vay.
Khi người vay muốn vay X đồng, thì thực tế được giải ngân là
(X đồng - phí bảo hiểm), nhiều trường hợp bên đi vay không muốn tham gia bảo
hiểm cho khoản vay tiêu dùng, nhưng cũng đành phải mua bảo hiểm tín dụng khoản
vay để được vay tín dụng. Khoản phí bảo hiểm thường được các
CTTC tự động cho vào danh mục bảng phí, thậm chí tự động tính phí này khi bên
vay tham gia khoản vay. Hậu quả là nhiều khách hàng đi vay than phiền khi bị làm khó
như kéo dài quá trình giải ngân khoản vay cho khách hàng, hoặc cho vay với lãi
suất cao hơn mặc dù phía bên cho vay cho rằng mình chỉ giới thiệu các sản phẩm bảo
hiểm tới khách hàng chứ không hề ép họ.[30]
Tại
Úc, trong một phán quyết của Tòa án Liên bang Úc vào ngày 19/02/2015, bên cho vay tự ý
bán bảo hiểm cho bên vay, Tòa án đã tuyên mức
phạt cao nhất 1,1 triệu đô la Úc do vi phạm điều 12CB Đạo luật Ủy ban Đầu tư và
Chứng khoán Úc năm 2001 (Australian Securities And Investments Commission Act
2001)[31] đối với hành vi bán bảo
hiểm cho khách hàng một cách vô lương tâm (unconscionable conduct) của hai CTTC
- The Cash Store Pty Ltd (TCS) và Assistive Finance Australia Pty Ltd (AFA)
trong vụ án.[32]
Theo
định nghĩa của luật, một hành vi có thể bị xem là vô lương tâm nếu nó thực sự
hà khắc, nhẫn tâm hay mang tính áp bức, để được coi là vô lương tâm, hành vi phải
có cái gì đó hơn chỉ đơn giản là bất công hay vô lý; nó phải thách đố lương tâm
(good conscience) vốn được coi chuẩn mực ứng xử chung của xã hội.
Trong
vụ án này, khi cho khách hàng vay, TCS đồng thời bán kèm hợp đồng bảo hiểm khoản
vay được giới thiệu là một phương án bảo đảm trả nợ. Nhờ thế TCS kiếm được 1,3
triệu đô la Úc phí tiếp thị, phân phối và hoa hồng trong tổng doanh thu bảo hiểm
là 2,28 triệu đô la Úc. Tòa cho rằng việc bán bảo hiểm như thế là hành vi vô
lương tâm, vì khách hàng chỉ vay với thời hạn rất ngắn và gói bảo hiểm hoàn
toàn vô ích cho những người thất nghiệp. Tòa cũng lưu ý rằng công ty đã khuyến
khích nhân viên bán bảo hiểm mà không giải thích rõ ràng chi tiết về hợp đồng bảo
hiểm cho khách hàng, các khách hàng được thông báo rằng một phương án bảo đảm
trả nợ đã được sắp xếp cho họ, và việc bán bảo hiểm như thông báo rằng đây là một
phương án bảo đảm trả nợ và khách hàng chấp thuận bất kể khách hàng không thực
sự cần hoặc chỉ vay trong một khoảng thời gian rất ngắn. Ngoài ra, tòa án cũng
kết luận rằng CTTC đã không thể đưa ra đánh giá sơ bộ gồm các yêu cầu hợp lý về
tình hình tài chính của khách hàng bao gồm các khoản chi phí cố định và biến đổi
và các khoản nợ khác, ở mức thu nhập tối thiểu và các khoản thanh toán tiền
thuê hoặc thế chấp.
Hiện nay tại Việt Nam, cụ
thể, theo Điều 3 Thông tư liên tịch số 86/2014/TTLT-BTC-NHNNVN về hướng dẫn
hoạt động đại lý bảo hiểm của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
cho doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, các tổ chức tín dụng chỉ dưới vai trò cung
cấp thông tin về các khoản phí bảo hiểm và giới thiệu tới người vay, việc mua bảo hiểm khoản vay phụ thuộc vào lựa chọn của bên vay một cách tự nguyện. Khuôn khổ pháp luật của nước ta vẫn
chưa đề cập tới chế tài áp dụng khi bên cho vay là tổ chức tín dụng tự ý bán
bảo hiểm cho người vay mà không theo nhu cầu của khách hàng.
Do đó, trong thời gian tới cần kịp thời các nhà làm luật cần hoàn
thiện các chế tài xử phạt hành vi
tự ý bán bảo hiểm của các tổ chức tín dụng. Theo đó,
Việt Nam có thể tham khảo quan điểm của Úc và quy định rõ nghĩa vụ của các TCTC phải cung cấp đầy đủ thông tin sản
phẩm bảo hiểm khoản vay, không được áp đặt việc mua bảo hiểm khoản vay đối với
bên đi vay và các chế tài xử phạt hành vi vi phạm. Thông qua việc bổ sung các chế tài xử phạt, điều này sẽ giúp cho thị
trường bán bảo hiểm khoản vay trở nên lành mạnh hơn, có đủ sự răn đe để bảo vệ quyền hợp pháp của người đi vay tín dụng.
Tóm lại, hợp đồng cho vay tiêu dùng là hợp
đồng theo mẫu, do đó trước khi áp dụng
các hợp đồng vay vốn cá nhân, các CTTC phải đăng ký và được cơ quan bảo vệ
người tiêu dùng ở trung ương hoặc địa phương chấp nhận mới được áp dụng ký kết
với người tiêu dùng. Mặc
dù quy định đăng ký mẫu hợp đồng có thể giúp các cơ quan bảo
vệ người tiêu dùng kiểm soát tốt
hơn các mẫu hợp đồng vay
vốn cá nhân của các CTTC,
các TCTD nhưng vẫn còn tiềm ẩn nhiều các điều khoản bất lợi cho người
tiêu dùng hoặc các
điều khoản có khả năng vi phạm quy định pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, các quy định pháp luật khác.
Để bảo vệ quyền lợi của mình, khi có nhu cầu vay tiền, người tiêu dùng cần
lưu ý trước khi ký hợp đồng cần tham khảo các hình thức tín dụng tại các ngân hàng,
tại các CTTC, và lựa chọn các TCTD
có uy tín. Người
tiêu dùng phải đọc thật kỹ hoặc
yêu cầu nhân viên tư vấn làm rõ nội dung hợp đồng,
các điều khoản hay điều kiện giao dịch chung của khoản vay, đặc biệt lưu ý các điều khoản vể lãi suất, thời hạn
và phương thức trả nợ, cách tính tiền phạt. Người tiêu dùng cũng nên
cẩn trọng khi cung cấp các thông tin cá nhân của mình
cho nhân
viên của các CTTC hay bên môi giới cung
cấp dịch vụ hỗ trợ khoản vay tiêu dùng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng,
có những vấn đề chưa được làm rõ hoặc giải quyết, người tiêu dùng cần
phản ánh tới bên thứ ba (các hiệp
hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các Sở Công Thương trên địa bàn hoặc
Cục Quản lý cạnh tranh) để được tư vấn, hỗ trợ kịp thời.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bộ
luật Dân sự 2015
2.
Bộ luật Hình
sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017
3.
Luật
các Tổ chức tín dụng (TCTD) 2010
4.
Luật Thương mại 2005
5.
Nghị định
39/2014/NĐ-CP về hoạt động của công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính
6. Thông tư 43/2016/TT-NHNN quy định cho vay tiêu dùng
của CTTC.
7.
Đạo luật hạn chế
lãi suất
Nhật Bản 1954
8.
Đạo
luật Ủy ban Đầu tư và Chứng khoán Úc 2001
9.
Đạo luật Bảo vệ người vay tiêu dùng
năm 2009 của Úc
10. Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ, Bình
luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Công an nhân dân, 2017.
11. Asia Focus,
Japan’s new consumer finance law, 2/2007, https://www.frbsf.org/banking/files/AsiaFocus-Feb07.pdf.
12. Kazutoshi
Sugimura, Masaru Itatani, Masaki Bessho, Scope of Maximum Interest Rate
Regulation, 8/3/2017, https://www.boj.or.jp/en/research/wps_rev/lab/lab17e01.htm/
13. Hồng Anh, Cơ hội tăng tốc cho vay
tài chính tiêu dùng, Báo Nhân dân điện tử, 25/03/2021, https://nhandan.vn/nhan-dinh/co-hoi-tang-toc-cho-vay-tai-chinh-tieu-dung-639674/
14. Maimbo, Samuel
Munzele; Henriquez Gallegos, Claudia Alejandra, “Interest Rate Caps
around the World : Still Popular, but a Blunt Instrument”, Policy Research
Working Paper; No. 7070. World Bank Group, Washington, DC, 2014.
15.
Geraint
G.Howells, Thomas Wilhelmsson, “Handbook of Research on International Consumer Law”, 2nd ed, (2018), Nxb. Edward
Elgar.
[1] Khoản 16 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng (TCTD) 2010.
[2] Điều
9 Nghị định
39/2014/NĐ-CP về hoạt động của công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính
thì: Công ty tài chính được cho vay, bao gồm cả
cho vay trả góp, cho vay tiêu dùng khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại
Điều 5 Nghị định 39/2014/NĐ- CP.
[3] Khoản 1 Điều 3 Thông tư 43/2016/TT-NHNN quy định cho vay tiêu dùng
của CTTC.
[4] Hồng
Anh, Cơ hội
tăng tốc cho vay tài chính tiêu dùng, Báo Nhân dân điện tử,
25/03/2021, https://nhandan.vn/nhan-dinh/co-hoi-tang-toc-cho-vay-tai-chinh-tieu-dung-639674/,
truy cập ngày 20/07/2021.
[5] Hồng Anh, Báo Nhân dân điện tử, Tlđd.
[6] Ngày 20 tháng 8 năm 2015, Thủ tướng
Chính phủ đã ký Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định
02/2012/QĐ-TTg, trong đó, bổ sung dịch vụ vay vốn cá nhân (nhằm mục đích tiêu
dùng) vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu,
điều kiện giao dịch chung.
[7] Điều 406 Bộ luật Dân sự 2015 về Điều
kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng thì “Điều kiện giao dịch chung là những điều khoản ổn định do một bên công bố
để áp dụng chung cho bên được đề nghị giao kết hợp đồng; nếu bên được đề nghị
chấp nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận các điều khoản này”.
[8] Khoản 2, Điều 7.
Áp dụng pháp luật về lãi, lãi suất trong hợp đồng tín dụng: 2. Khi giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng, Tòa án áp dụng quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng
dẫn áp dụng Luật Các tổ chức tín dụng để giải quyết mà không
áp dụng quy định về giới hạn lãi suất của Bộ luật
Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định lãi,
lãi suất.
[9] Tổng hợp từ các trang web của 5 CTTC: Home
Credit, Fe Credit, HD Saison, Shinhan, Mirae Asset, cập nhật dựa vào thông tin
công bố đến 07/2021.
[10] The bank, “So
sánh lãi suất vay tiêu dùng cá nhân tại các ngân hàng”, https://thebank.vn/vay-tin-chap/hinh-
thuc-vay/vay-tieu-dung-ca-nhan-2.html,
truy cập ngày 20/07/2021.
[11] Lãi suất vay tiêu dùng có quá
cao?, https://fecredit.com.vn/taichinh/lai-suat-vay-tieu-dung-co-qua-cao/
[12] Lãi vay tiêu dùng
cao ngất ngưởng, https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/lai-vay-tieu-dung-cao-ngat-
nguong-1063426.html,
truy cập ngày 20/07/2021.
[13] Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 : "1. Lãi suất vay do các
bên thỏa thuận: Trường hợp các bên có thỏa
thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của
khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ
tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết
định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất."
[14] Điều
201 Bộ luật Hình
sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy
định về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự quy định:"Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức
lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến
dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc
đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng
đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.”
[15]Maimbo, Samuel Munzele; Henriquez
Gallegos, Claudia Alejandra, “Interest Rate Caps around the World : Still
Popular, but a Blunt Instrument”, Policy Research Working Paper; No.
7070. World Bank Group, Washington, DC, 2014. Bài nghiên cứu có thể tham
khảo tại:
https://openknowledge.worldbank.org/handle/10986/20494.
[16] Geraint
G.Howells, Thomas Wilhelmsson, “Handbook of
Research on International Consumer Law”, 2nd ed, (2018), Nxb. Edward
Elgar, bản sách có thể tham khảo tại: https://bitly.com.vn/pbdezg.
[17] Asia Focus, Japan’s new consumer
finance law, 2/2007,
https://www.frbsf.org/banking/files/AsiaFocus-Feb07.pdf, truy cập
ngày 20/07/2021.
[18] Đạo luật Bảo
vệ người vay tiêu dùng năm 2009 của Úc - National
Consumer Credit Protection Act 2009, https://www.legislation.gov.au/Details/C2017C00196.
[19] Hỏi đáp về khoản vay tiêu dùng/
vay trả góp tại Home Credit, https://www.homecredit.vn/pdf/faq_contact.pdf,
truy cập ngày 20/07/2021.
[20] Điều
300 Luật Thương mại 2005
[21] Khoản2
điều 418 Bộ luật Dân sự 2015
[22] Nguyễn
Văn Cừ và Trần Thị Huệ, Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb. Công
an nhân dân, 2017, tr.643.
[23] Khoán
1 Điều 3 Luật Thương mại 2005.
[24] Điều
301 Luật Thương mại năm 2005.
[25]
Geraint G.Howells,
Thomas Wilhelmsson, Tlđd.
[26] Xem Bản Điều khoản Điều kiện Cho
vay của Công ty Tài chính Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPB FC) công bố công
khai tại website: https://fecredit.com.vn/wp-content/uploads/2021/01/TC-Loan-201124.pdf,
truy cập ngày 20/07/2021.
[27] Tổng hợp từ các
khung lãi suất, phí của 4 công ty tài chính: Fe Credit, HD Saison, Mirae Asset,
Shinhan.
[28] Kazutoshi
Sugimura, Masaru Itatani, Masaki Bessho, Scope of Maximum Interest Rate
Regulation, 8/3/2017,
https://www.boj.or.jp/en/research/wps_rev/lab/lab17e01.htm/. Toàn văn Đạo
luật hạn chế lãi suất
có thể tham khảo tại: http://www.japaneselawtranslation.go.jp/law/detail_main?re=&vm=02&id=2134,
truy cập ngày 20/07/2021.
[29] Xem Bản Điều khoản Điều kiện Cho
vay của Công ty Tài chính Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPB FC) công bố công
khai tại website: https://fecredit.com.vn/wp-content/uploads/2021/01/TC-Loan-201124.pdf,
truy cập ngày 20/07/2021.
[30] Kim Lan, “Người
đi vay bắt buộc phải mua bảo hiểm?”, https://tinnhanhchungkhoan.vn/nguoi-di-vay-
khong-bat-buoc-phai-mua-bao-hiem-post255137.html,
truy cập ngày 28/04/2021.
[31] Toàn văn Đạo luật Ủy ban Đầu tư và
Chứng khoán Úc năm 2001:
https://www.legislation.gov.au/Details/C2018C00438.
[32] Toàn văn phán quyết ASIC v The
Cash Store Pty Ltd (in liq) [2014] FCA 926 xem tại http://www6.austlii.edu.au/cgi-bin/viewdoc/au/cases/cth/FCA/2014/926.html,
truy cập ngày 20/07/2021.
NGUON: Tạp chí Ngân hàng, Số 23, 2021/12
Nhận xét
Đăng nhận xét