Giải pháp nhận diện rủi ro từ khách hàng trong hoạt động rửa tiền tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam

 

GIẢI PHÁP NHẬN DIỆN RỦI RO TỪ KHÁCH HÀNG TRONG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

Bạch Thị Nhã Nam

Giảng viên Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Email: nambtn@uel.edu.vn


Tạp chí Kiểm sát số 17/2021

https://kiemsat.vn/gioi-thieu-tap-chi-kiem-sat-so-17-2021-62316.html

Tóm tắt:

 

Tại Việt Nam, hoạt động rửa tiền thông qua hoạt động của ngân hàng thương mại thuộc vào nhóm có nguy rửa tiền mức cao. Do đó, việc tăng cường các giải pháp ngăn ngừa hoạt động rửa tiền thông qua ngân hàng thương mại là việc làm cấp bách giúp đảm bảo môi trường tài chính lành mạnh, an toàn cho khách hàng, Ngân hàng thương mại và thúc đẩy hoạt động quản lý thị trường tín dụng tại Việt Nam cũng như góp phần phòng chống tội phạm rửa tiền. Bài viết đưa ra giải pháp nhận diện rủi ro từ khách hàng trong việc rửa tiền trong quá trình khách hàng thiết lập giao dịch với ngân hàng thương mại và khuyến nghị cho các ngân hàng thương mại xây dựng bộ tiêu chí nhận diện, đánh giá rủi ro phù hợp.

 

Từ khóa: rửa tiền, tội phạm, phòng chống…

 

1.     Khái niệm rửa tiền và quá trình xây dựng quy định pháp luật phòng chống rửa tiền tại Việt Nam

 

Khái niệm rửa tiền xuất hiện được sử dụng lần đầu tiên trong vụ bối chính trị Watergate năm 1973, thuật ngữ rửa tiền được định nghĩa như sau: “Rửa tiền là hoạt động đưa tiền bẩn hoặc tiền bất hợp pháp vào một vòng các giao dịch, nhằm mục đích sau cùng của chuỗi hoạt động giao dịch thì tiền thu được là hợp pháp hay tiền sạch.

Nói cách khác, nguồn gốc của những khoản tiền kiếm được một cách bất hợp pháp được làm lu mờ đi thông qua một chuỗi sự chuyển đổi hoặc giao dịch sao cho những khoản tiền đó là những khoản thu hợp pháp.[1]

 

Theo từ điển Black's Law Dictionary của Bryan A. Garner, rửa tiền là là hành vi chuyển tiền có được một cách bất hợp pháp thông qua những người hoặc tài khoản hợp pháp để không thể truy xuất được nguồn gốc của nó.[2] Các giao dịch để biến tiền bẩn thành tiền sạch được Bryan A. Garner cụ thể hóa bằng chủ thể và phương thức thực hiện các giao dịch. Cụ thể, quy trình hợp thức hóa tiền bất hợp pháp được tiến hành qua những cá nhân tài khoản hợp pháp. Trong định nghĩa của Bryan A. Garner, yếu tố hợp pháp không chỉ là đích đến cuối cùng của quá trình rửa tiền, mà chủ thể và kỹ thuật rửa tiền là những đối tượng được pháp luật công nhận.

Công ước Liên Hợp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hướng thần 1988 (Công ước Viên 1988) là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên ghi nhận về hành vi rửa tiền trên cơ sở gắn với hoạt động tội phạm ma túy và các chất hướng thần, và hoạt động rửa tiền là tội phạm hình sự. [3] Vào năm 2000, Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về phòng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 (sau đây gọi là Công ước Palermo 2000), trong đó có quy định những hành vi bị coi là tội phạm rửa tiền:[4]8 Chuyển đổi hay chuyển giao tài sản, dù biết rằng những tài sản này do phạm tội mà có, nhằm che đậy hoặc che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản hoặc nhằm giúp đỡ bất cứ người nào liên quan đến việc thực hiện một hành vi vi phạm nguồn lẩn tránh những hậu quả pháp do hành vi của người đó gây ra; Che đậy hoặc che dấu bản chất thực sự, nguồn gốc, địa điểm, việc chuyển nhượng, chuyển dịch hoặc quyền sở hữu hay những quyền đối với tài sản do phạm tội có; được, chiếm hữu, sử dụng tiền, tài sản tại thời điểm tiếp nhận đã biết được rằng tiền, tài sản này có nguồn gốc từ tội phạm. Công ước Palermo đặt ra nhiệm vụ đối với các quốc gia thành viên phải hình sự hóa những hành vi hợp pháp hóa tài sản do phạm tội khi chúng được thực hiện một cách cố ý bằng cách ban hành pháp luật hoặc những biện pháp cần thiết. So với Công ước Viên 1988, Công ước Palermo mở rộng phạm vi đối với tài sản nguồn gốc tội phạm sang tất cả các tội phạm, không còn giới hạn ở tội phạm liên quan đến ma túy và các chất hướng thần. Mặc dù có sự mở rộng phạm vi của tội phạm nguồn nhưng cả hai Công ước đều thể hiện được các yếu tố để đánh giá một hành vi có phải là rửa tiền hay không.

 

Nhận dạng hoạt động rửa tiền trong các Công ước của Liên Hợp quốc là tiền đề để các quốc gia thành viên tiến hành nội luật hóa các quy định của Công ước trong hệ thống pháp luật về phòng chống rửa tiền, thiết lập các cơ chế phòng chống và xử lý hoạt động rửa tiền. Mặc sự khác biệt về văn hóa, chính trị cũng như quan điểm lập pháp, nhưng các là thành viên đều lấy các Công ước làm gốc trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia.

 

Pháp luật tại Anh đã hình sự hóa tội phạm rửa tiền, theo đó một người được xem là phạm tội rửa tiền nếu trực tiếp tham gia hoặc liên quan đến việc thực hiện các hành vi: che giấu, ngụy tạo, chuyển đổi, chuyển giao tài sản phạm tội, xóa bỏ tài sản phạm tội khỏi lãnh thổ nước Anh và xứ Wales hoặc Scotland hoặc Bắc Ireland mà biết hoặc nghi ngờ rằng việc mình đang làm đang tạo điều kiện cho việc mua, chiếm giữ, sử dụng, kiểm soát các tài sản có nguồn gốc tội phạm hoặc nhân danh người khác.[5] chỉ không bị coi phạm tội nếu người này thực hiện hành vi theo ủy quyền thích hợp,[6] thực hiện hành vi theo chức năng nhiệm vụ của đạo luật Proceeds of Crime 2002 và những quy định khác liên quan đến hành vi phạm tội hoặc thu lợi từ hành vi phạm tội.[7]

 

Theo quy định của Bộ luật Hình sự Đức,[8] một người được bị kết tội rửa tiền và phải chịu những hình phạt nếu che giấu nguồn gốc, cản trở hoặc gây khó khăn cho cho việc xác định nguồn gốc, tịch thu hoặc thu giữ một vật có nguồn gốc tội phạm.

 

Tại Việt Nam,  tội rửa tiền được ghi nhận lần đầu trong Bộ luật Hình sự 1999 dưới quy định tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có. Mặc dù có sự khác biệt dưới góc độ ngôn ngữ, v bản chất, hành vi mục đích được tả trong cấu thành tội phạm hoàn toàn trùng khớp với bản chất của hoạt động rửa tiền. Khái niệm về rửa tiền chính thức được ghi nhận lần đầu tiên trong Nghị định Chính phủ số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 về phòng, chống rửa tiền. Theo đó, rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có bằng cách tham gia trực tiếp, gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản đó; thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản; đầu vào một dự án, công trình góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản đó. So với tội phạm rửa tiền trong hai Công ước, khái niệm về rửa tiền trong quy định trên vẫn thể hiện típ sự hợp pháp hóa tiền, tài sản có nguồn gốc bất chính từ tội phạm nhưng đã liệt kê cụ thể các phương thức hợp thức hóa. Tiền, tài sản nguồn gốc tội phạm đối tượng của các giao dịch, của các hoạt động làm biến đổi về nguồn gốc, vị trí, quyền sở hữu, phương tiện đầu trong các dự án và doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm này chưa tạo ra sự thống nhất với quy định pháp luật hình sự về tội rửa tiền trong Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009. Nỗ lực phòng chống rửa tiền được tiếp tục thúc đẩy và ghi nhận trong Luật phòng, chống rửa tiền 2012 được Quốc hội ban hành ngày 18/06/2012. Luật này quy định khái niệm rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có, bao gồm: hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự; trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có; chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản.[9]

 

Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự 2015) quy định cá nhân sẽ chịu trách nhiệm hình sự nếu tham gia gián tiếp, trực tiếp vào các giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản do phạm tội mà có; sử dụng tiền, tài sản do phạm tội mà có để thực hiện các hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động khác; che giấu thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm tội hoặc cản trở việc xác minh thông tin đó.[10]

 

Nhìn chung, pháp luật Việt Nam đã ghi nhận khái niệm rửa tiền hài hòa với các quy định quốc tế và pháp luật các quốc gia trên thế giới. Rửa tiền được mô tả bằng những hành vi cụ thể: che giấu, di chuyển, chuyển đổi, chuyển nhượng, sử dụng tiền, tài sản có được do hành vi phạm tội nhằm che giấu nguồn gốc, bản chất bất hợp pháp. Về phạm vi xác định tội phạm nguồn của tội rửa tiền, Công ước Palermo 2000 pháp luật Việt Nam đều quy định tội phạm được xác định theo hướng rộng nhất, tội phạm nguồn là tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự và tài sản có được từ tội phạm đó trở thành đối tượng của tội rửa tiền.[11] Khi xem xét cấu thành tội phạm trong Bộ luật Hình sự Việt Nam thì đều cấu thành tội phạm hình thức, mặt khách quan không quy định hậu quả và mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả, người thực hiện hành vi sẽ được coi là tội phạm khi thực hiện hành vi mà ngay cả khi hậu quả chưa xảy ra.

 

Ngày 30/04/2019, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 474/QĐ-TTg Ban hành kế hoạch hành động, giải quyết rủi ro rửa tiền tài trợ khủng bố giai đoạn 2019 – 2020, đồng thời phê duyệt Báo cáo tóm tắt đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền và tài trợ khủng bố giai đoạn 2012-2017. Báo cáo đã ghi nhận mức độ đánh giá rủi ro quốc gia của Việt Nam về rửa tiền ở mức trung bình thấp, tuy nhiên, rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố trong lĩnh vực ngân hàng được đánh giá ở mức cao. Điều này đặt Chính phủ đứng trước thách thức phải ban hành kế hoạch hành động quốc gia phù hợp để đối phó với rủi ro từ hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố, đặc biệt trong bối cảnh đổi mới hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam. Do đó, sự bổ sung đổi mới trong quy định pháp luật về phòng chống rửa tiền hệ thống các NHTM cần được xem xét thận trọng và toàn diện.

 

2.   Hoạt động rửa tiền qua ngân hàng thương mại và nghĩa vụ pháp lý phòng chống rửa tiền phòng chống rửa tiền của ngân hàng thương mại

 

Ngân hàng thương mại một tổ chức tín dụng với đặc thù hoạt động kinh doanh, ngân hàng thương mại là khu vực tập trung số lượng lớn tiền mặt và các tài sản tài chính, do đó, đây là lĩnh vực thu hút sự chú ý của các đối tượng rửa tiền. Tại Việt Nam, theo báo cáo tóm tắt đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền và tài trợ khủng bố giai đoạn 2012-2017 của NHNN (gọi tắt là Báo cáo), Ngân hàng thuộc vào nhóm có nguy rửa tiền mức cao.[12] Kết quả đánh giá rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng dựa trên các thống kê mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng trong giao dịch, tình hình hoạt động của tội phạm rửa tiền liên quan đến ngân hàng. Theo đó, thống kê của Cục phòng, chống rửa tiền (AMLD) về báo cáo giao dịch đáng ngờ, số lượng giao dịch đáng ngờ qua các ngân hàng chiếm trên 90%, cao hơn so với các lĩnh vực khác. AMLD cho biết, từ năm 2012 2017, đến 7.285 báo cáo giao dịch đáng ngờ thuộc nhiều lĩnh vực, trong đó lĩnh vực ngân hàng là hơn 6.000 báo cáo.[13]29 Dòng tiền đi qua các NHTM rất nhiều, cả đầu vào và đầu ra nên các đối tượng rửa tiền đã tận dụng đặc điểm này để chuyển đổi từ tiền bẩn thành tiền sạch qua các nghiệp vụ của ngân hàng.

 

Đối tượng của hoạt động rửa tiền qua NHTM là tiền có nguồn gốc từ các tội phạm nguồn. Bộ luật Hình sự 2015 không giới hạn phạm vi tội phạm nguồn của hoạt động rửa tiền, báo cáo đã liệt kê 17 tội phạm nguồn chính của hoạt động rửa tiền, có thể kể đến một số tội phạm như: tội phạm về tham nhũng (tham ô tài sản, nhận hối lộ, lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản); tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, tội trốn thuế... thể thấy tội phạm nguồn của hoạt động rửa tiền qua NHTM được đề cập trong Báo cáo chủ yếu là những tội phạm mà mục đích cuối cùng là hướng đến tiền, tài sản, khi bị truy tố thì việc tịch thu tài sản liên quan đến tội phạm đó là biện pháp chế tài đương nhiên.

 

Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16 tháng 6 năm 2010 của Quốc hội, sửa đổi bổ sung bởi Luật số 17/2017/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2017 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng đã quy định trách nhiệm phòng chống rửa tiền của tổ chức tín dụng như sau: Không che giấu, thực hiện các hoạt động kinh doanh liên quan đến tiền khi đã bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp; Xây dựng quy định nội bộ về phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố; thực hiện các biện pháp phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố; hợp tác với quan nhà nước thẩm quyền trong điều tra rửa tiền, tài trợ khủng bố.[14]

 

Theo đó, NHTM phải báo cáo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có bằng chứng xác định nguồn tiền là bất hợp pháp, bằng chứng này có thể do NHTM thu thập được thông qua đánh giá các rủi ro khách hàng, nhận biết các giao dịch đáng ngờ, giao dịch có giá trị lớn bất thường, giao dịch phức tạp,… hoặc bằng chứng từ quan thẩm quyền. Mặc pháp luật những quy định về các biện pháp phòng chống rửa tiền, nhưng các NHTM vẫn phải tự thiết kế cho mình quy định nội bộ về phòng chống rửa tiền dựa trên quy định của luật, khẩu vị rủi ro các kế hoạch chiến lược đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh. Quy định nội bộ về phòng chống rửa tiền phải đảm bảo đầy đủ các nội dung bản theo quy định pháp luật38 được gửi cho NHNN sau khi ban hành.[15]

 

NHTM thực hiện trách nhiệm phòng chống rửa tiền ở hai giai đoạn: trước khi thiết lập giao dịch sau khi thiết lập giao dịch với khách hàng. giai đoạn trước khi thiết lập giao dịch. NHTM phải thực hiện các biện pháp nhận biết khách hàng, đánh giá rủi ro khách hàng, phân loại khách hàng theo các nhóm rủi ro dựa trên quy định pháp luật quy định nội bộ. NHTM thực hiện thông qua việc kiểm tra thông tin, đối chiếu với các cơ sở dữ liệu để đánh giá rủi ro và quyết định có chấp nhận giao dịch hay không. Sau khi thiết lập giao dịch, NHTM phải luôn theo dõi, cập nhật thông tin khách hàng, đánh giá rủi ro rửa tiền của các giao dịch nhằm phát hiện các giao dịch có dấu hiệu đáng ngờ và báo cáo với NHNN khi cần thiết. Nhận biết khách hàng, đánh giá các rủi ro giao dịch đối với mỗi đối tượng khách hàng khác nhau sẽ được các NHTM áp dụng các biện pháp khác nhau. Việc không tuân thủ các quy định về trách nhiệm phòng chống rửa tiền sẽ ràng buộc cho các NHTM trách nhiệm pháp lý.

 

Theo quy định tại Nghị định số 88/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/11/2019 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng, NHTM sẽ bị phạt tiền đối với những hành vi như không cập nhật thông tin khách hàng, không xây dựng các quy trình quản lý rủi ro các giao dịch, quy định về phân loại khách hàng, không có quy định nội bộ hoặc quy định nội bộ về AML không đầy đủ nội dung,…

 

3.   Đề xuất giải pháp nhận diện rủi ro khách hàng trong việc phòng chống rửa tiền của ngân hàng thương mại

 

Trong các quan hệ dân sự, các bên thực hiện giao dịch luôn tìm hiểu thông tin về bên còn lại để xác minh chủ thể thực hiện giao dịch đáp ứng đầy đủ các điều kiện, thẩm quyền để ký kết giao dịch hay không. Một trong những giải pháp để ngăn ngừa rửa tiên thông qua NHTM đó là việc phân loại và nhận diện rủi ro của khách hàng trong việc rửa tiền khi NHTM thiết lập giao dịch với khách hàng, từ trước, trong và sau khi kết thúc quan hệ với khách hàng. Do đó, trước khi tiến hành thiết lập giao dịch hoặc mở tài khoản đối với khách hàng mới, NHTM phải tiến hành định danh khách hàng – Know your customers (gọi tắt là KYC).[16]

KYC là cơ sở để xác định danh tính, đo lường mức độ rủi ro và khả năng NHTM có thể chấp nhận rủi ro của khách hàng. Các thông tin cơ bản mà NHTM phải yêu cầu khách hàng cung cấp bao gồm các thông tin về nhân thân, cư trú đối với cá nhân, thông tin xác thực tư cách pháp lý đối với khách hàng là tổ chức.[17]

Ngoài ra, cần phải thu thập thêm các thông tin về thu nhập trong vòng ít nhất 03 tháng gần nhất, thông tin về nơi làm việc của cá nhân, ngành nghề mang lại doanh thu chính, tổng doanh thu trong hai năm gần nhất, thông tin của những người điều hành, thông tin người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền nếu có.[18] Sự thay đổi các thông tin KYC dẫn đến sự biến đổi về rủi ro, các rủi ro khách hàng có thể gia tăng hoặc giảm trong suốt quá trình thực hiện giao dịch với NHTM. Khi có sự thay đổi các thông tin làm thay đổi mức độ rủi ro, NHTM sẽ kịp thời điều chỉnh các biện pháp xác minh, KYC phù hợp với từng đối tượng.

Việc KYC không chỉ dừng lại ở việc xác định danh tính của người trực tiếp thực hiện giao dịch. Vì trên thực tế, có nhiều giao dịch thực hiện với NHTM và khách hàng nhưng vì mục đích cuối cùng để đảm bảo quyền lợi của người thứ ba: như quan hệ bảo lãnh ngân hàng, đồng chủ tài khoản... Do đó, pháp luật đặt ra yêu cầu về thông tin của chủ sở hữu hưởng lợi. Chủ sở hữu hưởng lợi là những người sở hữu thực tế một tài khoản hoặc một giao dịch: chủ tài khoản, đồng chủ tài khoản hoặc người thực tế chi phối các giao dịch liên quan đến tài khoản hoặc chi phối chủ tài khoản.[19] Chủ sở hữu hưởng lợi không phải là người sở hữu tài khoản, nhưng chi phối các hoạt động của tài khoản nhằm tạo ra những khoản lợi ích cho mình, thông thường trên thực tế việc chi phối này được sự đồng ý của chủ tài khoản như trường hợp mở tài khoản đứng tên người khác, cho mượn thẻ có liên kết với tài khoản…Chủ sở hữu hưởng lợi còn xuất hiện trong các giao dịch giữa NHTM và pháp nhân, tổ chức. Họ những người quyền chi phối, kiểm soát thực tế pháp nhân, các nhân nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp 25% vốn điều lệ trở lên của pháp nhân, chủ doanh nghiệp tư nhân.[20] Chủ sở hữu hưởng lợi là người có quyền chi phối một ủy thác đầu tư, thỏa thuận ủy quyền.[21] Quy định này được bổ sung phù hợp với sự thay đổi các cấu trúc giao dịch hiện nay, đa số được thực hiện dưới hình thức ủy thác, ủy quyền. Thông tin để nhận biết chủ sở hữu hưởng lợi bao gồm các thông tin để KYC quy định tại điều 4 Nghị định 116/2013/NĐ-CP.

Sau khi thực hiện KYC, NHTM sẽ tiến hành phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro (CDD). Các yếu tố để CDD khách hàng bao gồm: loại khách hàng, loại sản phẩm dịch vụ, vị trí địa lý nơi khách hàng cư trú hoặc có trụ sở chính.[22]

Căn cứ đặc điểm khách hàng, NHTM có thể phân nhóm khách hàng theo các tiêu chí rủi ro này hoặc có thể mở rộng thêm các tiêu chí khác phù hợp với đặc điểm của tổ chức mình:

- Khách hàng có phải là cá nhân có ảnh hưởng chính trị PEPs;

- Khách hàng có phải là một tổ chức phi lợi nhuận;

- Khách hàng có phải là cá nhân, tổ chức đến từ các quốc gia, vùng lãnh thổ có rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố cao không;

- Khách hàng hoạt động trong các lĩnh vực có nguy cơ rửa tiền cao, tài trợ khủng bố đã được xác định tại báo cáo đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố của Việt Nam.

- Khách hàng có phải là đối tượng được chỉ định áp dụng các biện pháp đánh giá tăng cường  theo quy định của pháp luật không.

- Khách hàng nằm trong danh sách khách hàng có rủi ro cao của tổ chức báo cáo (theo tiêu chí nội bộ đơn vị quy định).

- Khách hàng có phải là một doanh nghiệp sử dụng nhiều tiền mặt không;

- Khách hàng có áp dụng các cấu trúc doanh nghiệp phức tạp, khó xác định chủ sở hữu hưởng lợi không;

- Khách hàng có tiến hành kinh doanh thông qua hoặc được giới thiệu bởi những người đóng vai trò kiểm soát (gatekeeper) như kế toán, luật sư hoặc các chuyên gia khác không;

- Khách hàng có nguồn gốc tài sản không rõ ràng hoặc khó xác minh nguồn gốc tài sản hoặc nguồn tiền không

- Khách hàng có phải là người/pháp nhân đáng tin cậy không.

 

Đối với loại khách hàng, NHTM sẽ kiểm tra bằng cách đối chiếu các thông tin sẵn với các dữ liệu được công bố bởi các cơ quan tổ chức trong và ngoài nước, như danh sách các cá nhân, tổ chức bị chỉ định của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp quốc, danh sách các công dân bị chỉ định đặc biệt và những người bị chặn của Văn phòng kiểm soát tài sản nước ngoài, danh sách đen của Bộ Công an, danh sách tổng hợp những người, nhóm và pháp nhân phải chịu các lệnh trừng phạt tài chính của Liên minh Châu Âu,… Đối với những khách hàng đến từ các quốc gia, vùng lãnh thổ ngoài Việt Nam, cần thực hiện việc kiểm tra xem các quốc gia, vùng lãnh thổ đó có nằm trong danh sách các quốc gia rủi ro cao về rửa tiền, tài trợ khủng bố do FATF công bố định kỳ, danh sách các quốc gia cấm vận của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp quốc, các quốc gia hoặc vùng, lãnh thổ được, nhận định nhiều hoạt động ma túy, tham nhũng, rửa tiền, hoặc NHTM tự thiết kế các tiêu chí CDD khách hàng riêng tùy thuộc khẩu vị rủi ro.

 

Việc CDD sẽ cho phép các NHTM phân loại được khách hàng theo mức độ rủi ro và thực hiện đánh giá tăng cường (EDD) đối với khách hàng rủi ro cao. Trên cơ sở đánh giá khả năng và tác động của rủi ro, NHTM sẽ xác định rủi ro của khách hàng, giao dịch và đưa ra những hành động cần thiết. Ví dụ, đối với cá nhân có ảnh hưởng chính trị PEPs, thực hiện tra cứu theo danh sách do NHNNVN công bố NHTM phải đăng bằng văn bản để NHNNVN gửi bằng văn bản điện tử.[23] Đối với các giao dịch công nghệ mới, yêu cầu khách hàng cung cấp các thông tin KYC, việc gặp mặt trực tiếp hay không do NHTM quyết định, trong trường hợp không gặp mặt thì cần bảo đảm có các biện pháp xác định khách hàng.[24] Đối với hoạt động qua trung gian giới thiệu, NHTM phải đảm bảo bên trung gian thực hiện các biện pháp thủ tục về KYC đúng quy định và phải cung cấp được thông tin về bên được giới thiệu cho NHTM khi có yêu cầu.[25] NHTM có quyền từ chối mở tài khoản và cung cấp các sản phẩm dịch vụ nếu khách hàng có rủi ro quá cao, hoặc cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nếu sau khi định danh khách hàng, phân loại rủi ro và đánh giá tăng cường, phát hiện khách hàng liên quan đến các giao dịch đáng ngờ, hoặc có khả năng rửa tiền.

 

NHTM cần xây dựng riêng các tiêu chuẩn để xác định, đánh giá rủi ro giao dịch và đưa ra các quyết định phù hợp trên sở tham khảo các tài liệu về đánh giá rủi ro rửa tiền của NHNNVN. Theo hướng dẫn của Cục phòng chống rửa tiền, các NHTM cần xác định khả năng xảy ra rủi ro trên cơ sở kinh nghiệm quản trị, xem xét từng yếu tố của rủi ro, báo cáo đánh giá rủi ro rửa tiền ở cấp độ quốc gia, các khuyến nghị của FATF để xây dựng thang đo đánh giá rủi ro. Từ đó NHTM sẽ đưa ra hai lựa chọn không cho phép giao dịch thực hiện hoặc giảm rủi ro xuống mức chấp nhận được. Các biện pháp giảm rủi ro xuống mức chấp nhận được tùy thuộc vào nghiệp vụ và khẩu vị rủi ro của NHTM. Ngoài các dấu hiệu trên là những dấu hiệu cơ bản để xác định yếu tố đáng ngờ của khách hàng, bên cạnh đó, các dấu hiệu nhận dạng giao dịch đáng ngờ đã được Luật phòng chống rửa tiền liệt kê.[26] Điều này giúp NHTM dễ dàng nhận biết các giao dịch đáng ngờ, ví dụ như có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên tài khoản, tiền gửi vào và rút ra nhanh khỏi tài khoản, hoặc là, sự tập hợp của các dòng tiền giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản về một tài khoản hoặc ngược lại trong thời gian ngắn…

 

Tóm lại, việc thực hiện nhận diện khách hàng, phân loại và đánh giá rủi ro của khách khi khách hàng thiết lập giao dịch với NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa và phòng chống rửa tiền qua NHTM. Việc kiểm soát thiết lập quan hệ với khách hàng bắt đầu từ trước, trong và sau khi kết thúc quan hệ với khách hàng. Do đó, trong thời gian tới các NHTM cần nỗ lực để hoàn thiện các tiêu chuẩn để xác định, đánh giá rủi ro giao dịch và đưa ra các quyết định phù hợp trên sở tham khảo tài liệu hướng dẫn của của Cục phòng chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm góp phần ngăn ngừa hoạt động rửa tiền diễn ra trong các NHTM tại Việt Nam.



[1] Trần Thị Hoài Thu, “Chủ đề Pháp luật về phòng, chống rửa tiền”, Đặc san tuyên truyền pháp luật, số 01/2014, tr.6.

[2] Money laundering is: “The act of transferring illegally obtained money through legitimate people or accounts so that its original source cannot be traced”.

[3] Xem Điểm a khoản 1 điều 3 Công ước Liên Hợp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp các chất mà túy và chất hướng thần 1988.

[4] Khoản 1 điều 6 Công ước về phòng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia 2000.

[5] Khoản 11 Điều 340, khoản 2 Điều 327, khoản 1 Điều 329 Proceeds of Crime Act 2002, Khoản 1 Điều 328 Proceeds of Crime Act 2002.

[6] Điều 338 Proceeds of Crime Act 2002.

[7] Khoản 2 điều 327 Proceeds of Crime Act 2002.

[8] Section 261 German Criminal Code.

[9] Khoản 1 điều 4 Luật Phòng, chống rửa tiền 2012.

[10] Khoản 1 điều 324 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

[11] Khoản 1 điều 3 Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 24/05/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng điều 342 Bộ luật Hình sự về tội rửa tiền: “Tội phạm nguồn là tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự và tài sản có được từ tội phạm đó trở thành đối tượng của tội rửa tiền...”

[12] Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo tóm tắt Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền và tài trợ khủng bố - 2012 – 2017, 2019, tr.25-26.

[13] Lê Thanh, Tuổi trẻ Online, “Tội phạm chọn ngân hàng để biến “tiền bẩn” thành “tiền sạch””, https://tuoitre.vn/toi-pham-chon-ngan-hang-de-bien-tien-ban-thanh-tien-sach- 20190602081835365.htm, truy cập 01/04/2021.

[14] Điều 11 Luật Các tổ chức tín dụng 2010, sửa đổi bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng 2017

[15] Điều 20 Luật Phòng, chống rửa tiền 2012

[16] Điểm a khoản 1 điều 8 Luật Phòng, chống rửa tiền 2012.

[17] Điểm a, Điểm b khoản 1 điều 9 Luật Phòng, chống rửa tiền 2012: Điểm a khoản 1 điều 9 Luật Phòng, chống rửa tiền 2012: Đối với khách hàng cá nhân là người Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số điện thoại, số chứng minh nhân dân hoặc số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; địa chỉ nơi đăng ký thường trú và nơi ở hiện tại; Đối với khách hàng cá nhân là người nước ngoài: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp, thị thực nhập cảnh; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài và địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở Việt Nam.; Đối với pháp nhân: tên giao dịch đầy đủ và viết tắt; địa chỉ đặt trụ sở chính; số điện thoại, số fax; lĩnh vực hoạt động, kinh doanh; thông tin về người thành lập, đại diện cho tổ chức bao gồm các thông tin nhận biết đối với khách hàng là cá nhân.

[18] Khoản 1 điều 1 Thông tư 31/2014/TT-NHNN.

[19] Khoản 3 điều 1 Nghị định 87/2019/NĐ-CP.

[20] Khoản 3 điều 1 Nghị định 87/2019/NĐ-CP.

[21] Khoản 3 điều 1 Nghị định 87/2019/NĐ-CP.

[22] Khoản 1 điều 6 Nghị định 116/2013/NĐ-CP.

[23] Khoản 2 điều 1 Thông tư 31/2014/TT-NHNN.

[24] Điều 8 Nghị định 116/2013/NĐ-CP, khoản 5 điều 1 Nghị định 87/2019/NĐ-CP.

[25] Điều 17 Luật Phòng, chống rửa tiền 2012.

[26] Khoản 3 điều 22 Luật Phòng, chống rửa tiền 2012.


Nguồn: Tạp chí Kiểm sát số 17, 2021

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 22/2018/AL VỀ NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG TIN CỦA BÊN MUA BẢO HIỂM

Trách nhiệm cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm giai đoạn tiền hợp đồng

KHÁI NIỆM DỮ LIỆU CÁ NHÂN VÀ GÓC NHÌN TỪ GDPR