NGUYÊN TẮC TRUNG THỰC TUYỆT ĐỐI TRONG LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM (SỬA ĐỔI) 2022 - LẠ LẪM HAY QUEN THUỘC?

 NGUYÊN TẮC THIỆN CHÍ TUYỆT ĐỐI TRONG LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM (SỬA ĐỔI) 2022 - LẠ LẪM HAY QUEN THUỘC?

Bạch Thị Nhã Nam

Giảng viên Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG Tp.Hồ Chí Minh, NCS Đại học Griffith, Úc.

Email: nambtn@uel.edu.vn, Phone: 0983942542

Cập nhật ngày 29/06/2022, Brisbane, Úc

 

Bach Thi Nha Nam

Lecturer of Faculty of Law, University of Economics and Law, Ho Chi Minh City National University, PhD Candidate Griffith University, Australia

Email: nambtn@uel.edu.vn, Phone: 0983942542

 

Tóm tắt: Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi (2022) đã được Quốc hội thông qua vào ngày 16/6/2022. Trong Luật này, nguyên tắc trung thực tuyệt đối (hay còn gọi là nguyên tắc thiện chí tuyệt đối) có nguồn gốc từ pháp luật bảo hiểm của Anh đã được ghi nhận trong các nguyên tắc điều chỉnh việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Bài viết phân tích về nguồn gốc ra đời, ý nghĩa pháp lý nguyên tắc trung thực tuyệt đối và đánh giá mức độ tương thích giữa việc ghi nhận nguyên tắc này trong pháp luật bảo hiểm trong mối tương quan so sánh với nguyên tắc thiện chí, trung thực trong pháp luật dân sự Việt Nam.

Từ khóa: nguyên tắc, trung thực, thiện chí, bảo hiểm

Abstract:

The Law on Insurance Business stipulates the principle of utmost good faith derived from British insurance law. The article analyses the origin, legal meaning of the principle of utmost good faith and evaluates the compatibility between the recognition of this principle in the insurance law and the principle of good faith in the Vietnamese civil law.

Keywords: principle, honesty, good faith, insurance

  

1.   Sự xuất hiện nguyên tắc trung thực tuyệt đối (utmost good faith) trong pháp luật bảo hiểm Anh

Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (còn được gọi là thiện chí tuyệt đối) có nguồn gốc từ pháp luật bảo hiểm của Anh, và ảnh hưởng đến pháp luật bảo hiểm của nhiều quốc gia, vì nguyên tắc trung thực tuyệt đối đặt ra một tiêu chuẩn đạo đức và pháp lý để các bên (bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm) thực hiện nghĩa vụ thông tin trong quá trình đàm phán, kí kết hợp đồng bảo hiểm.

Ngành bảo hiểm của Anh là ngành công nghiệp thống lĩnh thị trường lớn nhất ở châu Âu và lớn thứ tư trên thế giới.[1] Quy mô lớn mạnh của thị trường bảo hiểm Anh trên phạm vi toàn cầu đã dẫn đến những ảnh hưởng mạnh mẽ của pháp luật bảo hiểm của Anh đối với các quốc gia khác trên thế giới cho dù tồn tại sự khác biệt về hệ thống pháp luật, và văn hóa pháp lý.

Nguồn gốc của bảo hiểm hiện đại bắt nguồn từ hoạt động của các thương gia ở Ý vào đầu thế kỷ XII và hình thức bảo hiểm sớm nhất là bảo hiểm hàng hải, mặc dù trước đó đã có hình thức bảo hiểm tương hỗ (bảo hiểm theo nhóm). [2]

Bảo hiểm hàng hải xuất hiện lần đầu tiên ở Anh vào những năm 1500,[3] và nguồn gốc của pháp luật bảo hiểm Anh dựa trên các thông lệ hình thành và phát triển trong các hoạt động giao thương hàng hải với các thương nhân Lombard (Lombard là một bộ tộc ngườc Đức đã thống trị một vương quốc ở Ý từ năm 568 đến 774), và án lệ của Tòa án Hải quân Anh chuyên giải quyết các tranh chấp về thương mại và vận chuyển hàng hải. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, Tòa án Hải quân Anh đã áp dụng các nguyên tắc của hệ thống dân luật để phù hợp với các thương nhân nước ngoài.[4]

Nguyên tắc thiện chí, trung thực (good faith) bắt nguồn từ luật La Mã cổ đại đã được các thương gia Ý hồi sinh trong thế kỷ XII và các thế kỷ sau đấy.[5] Vào cuối thế kỷ XVI, dưới ảnh hưởng của giao thương ngày càng tăng với các thành phố của Ý, nguyên tắc thiện chí, trung thực, là một khái niệm được hình thành và ghi nhận trong hệ thống pháp luật dân sự đã dần dần đi vào pháp luật Anh và bắt đầu phát triển trong một số hợp đồng, chẳng hạn như hợp đồng bảo hiểm và các hợp đồng dựa trên cơ sở mối quan hệ ủy thác.[6] “Good faith” có nghĩa là trung thực hoặc ý định thành thật, nó cũng bao hàm thước đo về sự trung thực và công bằng,[7] được xem là một ngưỡng đạo đức cơ bản đối với các bên trong quan hệ hợp đồng, có nghĩa là mỗi bên phải hành động một cách trung thực đối với bên còn lại.

Đáng lưu ý, hệ thống thông luật không thừa nhận nguyên tắc thiện chí, trung thực trong giai đoạn đàm phán hợp đồng như ở các quốc gia theo hệ thống dân luật ngoại trừ một số trường hợp hợp đồng riêng biệt. Theo pháp luật hợp đồng của Anh, không tồn tại nghĩa vụ thương lượng một cách thiện chí (duty to negotiate in good faith). Trong một phán quyết, tòa án Anh cho rằng: “Nghĩa vụ thương lượng một cách thiện chí là không khả thi trong thực tế…, khi các bên đang đàm phán, bất kỳ bên đàm phán nào cũng có quyền rút khỏi các cuộc đàm phán đó vào bất kỳ lúc nào và vì bất kỳ lý do gì. Do đó, họ không có nghĩa vụ phải thương lượng thiện chí cho đến khi có “lý do chính đáng” để rút lui.”[8] Dẫu vậy, pháp luật Anh công nhận một số nghĩa vụ nhất định bảo vệ lợi ích của các bên tham gia đàm phán giai đoạn tiền hợp đồng. Các nghĩa vụ bao gồm: nghĩa vụ không đưa ra bất kỳ thông tin sai lệch nào (obligation not to make any misrepresentation) nghĩa vụ cung cấp thông tin trung thực (obligation of information), nghĩa vụ thiện chí trong các hợp đồng mang tính chất quan hệ ủy thác(obligation of good faith in uberrimae fidei contracts), nghĩa vụ bảo mật (obligation of confidentiality), hành vi vi phạm sẽ bị xử phạt theo các chế tài dựa trên Đạo luật về đưa thông tin sai lệch 1967, học thuyết công bằng (undue influence) tránh trường hợp một người lợi dụng vị trí quyền lực đối với người khác để  thúc ép người khác đồng ý vì họ không thể tự do thực hiện ý chí độc lập của mình,  học thuyết về điều trói buộc (estoppel)…

Đối với hợp đồng bảo hiểm, nguyên tắc trung thực tuyệt đối trở thành một tiêu chuẩn nổi trội để phân biệt hợp đồng bảo hiểm với các hợp đồng thương mại khác vì hợp đồng bảo hiểm được xem là hợp đồng của sự thiện chí tuyệt đối theo thông luật.[9] Không giống như các hợp đồng khác, không tồn tại nghĩa vụ đàm phán thiện chí, hợp đồng bảo hiểm được giao kết dựa trên sự tin tưởng và tin cậy giữa các bên. Theo đó, ngay từ giai đoạn đàm phán, các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm phải thỏa thuận với nhau một cách trung thực và thiện chí.

Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (utmost good faith/uberrimae fidei) là một nguyên tắc pháp lý điều chỉnh hợp đồng bảo hiểm được công nhận trong pháp luật bảo hiểm của nhiều quốc gia theo hệ thống thông luật như Anh, Úc, Mỹ. Từ điển pháp lý Black’s Law định nghĩa “thiện chí” là: “trạng thái tâm trí bao gồm (1) trung thực trong niềm tin hoặc mục đích, (2) thành thực thực hiện nghĩa vụ đã cam kết (3) tuân thủ hợp lý các tiêu chuẩn thương mại về giao dịch công bằng trong hoạt động kinh doanh thương mại nhất định, hoặc (4) không có ý định lừa đảo hoặc tìm kiếm lợi ích một cách vô lương tâm.[10] 

Vụ án bảo hiểm đầu tiên tại Anh nhắc đến nguyên tắc trung thực tuyệt đối là vụ án Carter v. Boehm (1766),[11] tuy nhiên trong phán quyết này, chỉ có từ "Good faith" được đề cập chứ không kèm theo tính từ "utmost" - "tuyệt đối". Thẩm phán Lord Mansfield đã nêu trong phán quyết ý nghĩa của sự thiện chí, trung thực, đây là nguyên tắc cơ bản của hợp đồng bảo hiểm và các bên có nghĩa vụ tiết lộ cho nhau thông tin quan trọng trong quá trình giao kết hợp đồng bảo hiểm. Theo Thẩm phán Lord Mansfield: “Good faith" - Thiện chí, trung thực ngăn cấm một trong hai bên che giấu những gì mình biết về nội dung giao dịch, thúc đẩy bên kia tham gia hợp đồng bảo hiểm do họ thiếu hiểu biết về thông tin bị che giấu và tin vào những điều ngược lại.”[12]. Nguyên tắc Good faith" về thiện chí, trung thực đã được hoàn thiện thông qua các phán quyết về bảo hiểm sau đó và được pháp điển hóa trong Đạo luật Bảo hiểm Hàng hải 1906 của Anh (MIA 1906) với sự bổ sung tính từ “utmost” - “tuyệt đối” hoặc “cao nhất” để hình thành nguyên tắc trung thực tuyệt đối hay thiện chí tuyệt đối (utmost good faith/uberrimae fidei).[13] Thuật ngữ “utmost” được sử dụng để nhấn mạnh mức độ thiện chí trong giao kết hợp đồng bảo hiểm, đặt ra cho các bên một nghĩa vụ xác thực thông tin được trao đổi ở mức độ cao hơn so với yêu cầu trong các hợp đồng thương mại thông thường.[14] Lý do áp dụng nguyên tắc trung thực tuyệt đối trong hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng bảo hiểm không giống như hầu hết các hợp đồng thương mại khác, đây là hợp đồng dựa trên sự suy đoán về rủi ro được bảo hiểm do thông tin của bên mua bảo hiểm (BMBH) cung cấp cho doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH).[15] Vì vậy, trong MIA 1906, hợp đồng bảo hiểm hàng hải là “hợp đồng dựa trên sự trung thực tuyệt đối, và nếu một trong các bên vi phạm nguyên tắc trung thực tuyệt đối, hợp đồng bảo hiểm đã giao kết sẽ vô hiệu”.[16]  Nguyên tắc này đã được pháp điển hóa trong các phần 17 đến phần 20 trong MIA 1906, tuy nhiên được Anh áp dụng cho tất cả các loại hình bảo hiểm, cả các loại hình bảo hiểm phi hàng hải.

Tại Anh, sau quá trình cải cách pháp luật bảo hiểm, nguyên tắc trung thực tuyệt đối được nêu lại trong Đạo luật bảo hiểm người tiêu dùng 2012 (The Consumer Insurance 2012 – Tiết lộ và khai báo thông tin) và Đạo luật Bảo hiểm 2015 (Insurance Act 2015). Nguyên tắc trung thực tuyệt đối không chỉ được xem là nguyên tắc cơ bản của hợp đồng bảo hiểm hàng hải, mà còn được áp dụng trong các loại hình hợp đồng bảo hiểm khác.

Yêu cầu về nghĩa vụ pháp lý từ nguyên tắc trung thực tuyệt đối là các bên trong hợp đồng bảo hiểm (bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm) phải tiết lộ tất cả các sự kiện, thông tin quan trọng đối với rủi ro được bảo hiểm để giúp các bên xem xét quyết định về việc có tham gia hợp đồng bảo hiểm hay không và nếu có thì nội dung, các điều khoản được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm sẽ như thế nào?  

Nghĩa vụ tiết lộ hay khai báo thông tin là nghĩa vụ áp đặt cả cho bên mua bảo hiểm và DNBH, tuy nhiên, trên thực tế, nghĩa vụ này tạo ra áp lực nặng nề hơn đối với bên mua bảo hiểm. Điều này là do thông tin liên quan đến việc đánh giá rủi ro được bảo hiểm thường nằm trong hiểu biết của bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hơn là phía DNBH. Ở giai đoạn phát triển ban đầu của ngành bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm sở hữu tất cả các tài liệu, thông tin đối với rủi ro được bảo hiểm, DNBH dựa vào việc tiết lộ tất cả các dữ kiện sẽ ảnh hưởng đến khả năng xảy ra tổn thất và mức độ tổn thất của sự kiện rủi ro đó để có thể xác định ý chí giao kết hợp đồng, đánh giá rủi ro một cách chính xác, và xác định phí bảo hiểm phù hợp .[17]

Ngoài nghĩa vụ tiết lộ thông tin quan trọng, nghĩa vụ không trình bày thông tin sai sự thật cũng được đề cập trong MIA 1906,[18] như vậy, nguyên tắc thiện chí tuyệt đối được diễn tả cụ thể thông qua hai nghĩa vụ cơ bản: (i) nghĩa vụ tiết lộ thông tin và (ii) nghĩa vụ không cung cấp thông tin sai lệch mang tính chất ảnh hưởng quan trọng đến việc giao kết hợp đồng của các bên trong giai đoạn đàm phán hợp đồng.

Đối với DNBH, thông tin được cho là quan trọng, cần thiết, là cơ sở để DNBH đánh giá rủi ro được bảo hiểm, xác định phí bảo hiểm, và ảnh hưởng đến việc DNBH đưa ra quyết định có chấp nhận giao kết hợp đồng bảo hiểm hay không? Việc đánh giá tính chất trọng yếu của thông tin được cung cấp sai sự thật hoặc không được tiết lộ bao gồm cả tiêu chuẩn khách quan và chủ quan.[19] Tiêu chuẩn khách quan sẽ đòi hỏi một DNBH bất kỳ trong tình huống thông thường sẽ thận trọng đánh giá thông tin như thế nào, và xem xét mức độ ảnh hưởng đến quyết định chấp nhận bảo hiểm. Thông luật sử dụng tiêu chuẩn “thận trọng” là một tiêu chuẩn pháp lý để xác định xem người đó có hành động cẩu thả hay không, người đó là một người có kiến thức, và khả năng phán đoán để bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ và của người khác như bất kỳ một cá nhân có năng lực tham gia giao dịch trong xã hội.[20] Ngoài ra, tiêu chuẩn chủ quan dựa trên việc xem xét cụ thể thực tiễn đánh giá thông tin của chính DNBH trong tranh chấp, tiêu chuẩn chủ quan đòi hỏi phải có mối quan hệ giữa thông tin sai sự thật trọng yếu, hoặc thông tin quan trọng không được tiết lộ và sự ảnh hưởng đến việc chấp nhận bảo hiểm của DNBH, DNBH vì sự hiểu biết sai sự thật do bên mua bảo hiểm gây ra đã tham gia hợp đồng bảo hiểm theo các điều khoản đã thỏa thuận.[21] Nếu như DNBH biết được sự thật, họ đã không giao kết hợp đồng bảo hiểm, hoặc có thể giao kết hợp đồng bảo hiểm với những điều khoản khác biệt. Việc bên mua bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ tiết lộ thông tin hoặc có sự vi phạm trong việc thực hiện nghĩa vụ cho phép vô hiệu hợp đồng, và DNBh có quyền từ chối tất cả các yêu cầu bồi thường cho dù sự vi phạm nghĩa vụ tiết lộ thông tin hay cung cấp thông tin sai có liên quan đến tổn thất thực tế hay không.

Như vậy, trong pháp luật bảo hiểm của Anh, nguyên tắc trung thực tuyệt đối tạo ra các nghĩa vụ đối với bên mua bảo hiểm (bao gồm cả người được bảo hiểm, hoặc người đại diện của bên mua bảo hiểm) khi đàm phán hợp đồng bảo hiểm ở giai đoạn tiền hợp đồng: (i) tiết lộ hoặc cung cấp thông tin trung thực, đầy đủ và (ii) không đưa ra thông tin sai sự thật ảnh hưởng đến quyết định giao kết hợp đồng bảo hiểm của DNBH. Mục đích của việc áp dụng nguyên tắc trung thực tuyệt đối trong bảo hiểm là nhằm ngăn ngừa các hành vi gian dối, và khuyến khích các bên tham gia giao dịch thiện chí, trung thực. Các yêu cầu chi tiết đối với nghĩa vụ thông tin trong pháp luật bảo hiểm Anh được phát triển, hoàn thiện, và giải thích bởi thẩm phán Anh thông qua hệ thống án lệ bảo hiểm cùng với sự phát triển của thị trường bảo hiểm tại Anh.[22] 

2.   Sự tương thích của nguyên tắc trung thực tuyệt đối trong Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) 2022 và pháp luật dân sự  Việt Nam

Sau hơn hai mươi năm kể từ khi Luật Kinh doanh bảo hiểm (KDBH) 2000 được ban hành, Luật KDBH đã được xem xét sửa đổi nhiều lần để đáp ứng nhu cầu cải cách pháp luật, góp phần thúc đẩy thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển và đóng góp cho nền kinh tế nói chung.

Luật KDBH (sửa đổi) 2022 mới được Quốc hội thông qua (16/06/2022) có một nội dung hết sức tiến bộ tại Điều 13, quy định các nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm, bao gồm nguyên tắc trung thực tuyệt đối, nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm, nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc thế quyền, nguyên tắc rủi ro ngẫu nhiên. 

Về cơ bản, các nguyên tắc được đề xuất trong một điều khoản riêng biệt này khá tương đồng với các nguyên tắc bảo hiểm đã được ghi nhận trong pháp luật bảo hiểm các nước trên thế giới, là sự kế thừa các quy định riêng rẽ đã có trước đây trong các văn bản pháp luật bảo hiểm của nước ta.

Việc ghi nhận các nguyên tắc pháp lý trong văn bản luật rất quan trọng vì nguyên tắc pháp lý có vai trò định hướng việc cụ thể hóa các quy định pháp luật bảo hiểm chi tiết trong chính văn bản luật KDBH và các văn bản dưới luật. Do đó, các nguyên tắc pháp lý phải đảm bảo tính hệ thống hài hòa với toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam, phù hợp với các tiêu chuẩn đạo đức, lẽ phải, sự công bằng,[23] và phản ánh bản chất vốn có của hoạt động bảo hiểm. Trong quá trình du nhập pháp luật và học hỏi kinh nghiệm lập pháp, Việt Nam cũng cần lưu ý đến các nguyên tắc pháp luật đã tồn tại trong pháp luật dân sự Việt Nam, sự khác biệt giữa hệ thống thông luật và hệ thống dân luật.

Đáng chú ý tại Điều 13 là việc thừa nhận nguyên tắc trung thực tuyệt đối trong lĩnh vực bảo hiểm, cụ thể tại Khoản 1 của điều này: “Nguyên tắc trung thực tuyệt đối: Các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm phải cung cấp thông tin và thực hiện các quyền và nghĩa vụ một cách trung thực nhất, trên cơ sở tin tưởng tuyệt đối lẫn nhau trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm.”

Nguyên tắc trung thực tuyệt đối hay nguyên tắc thiện chí tuyệt đối là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng bảo hiểm được thừa nhận trong pháp luật bảo hiểm của nhiều quốc gia. Việc Việt Nam ghi nhận nguyên tắc trung thực tuyệt đối cũng không tạo ra nội dung khác biệt hay mới mẻ mà là sự pháp điển hóa giá trị cơ bản của pháp luật hợp đồng bảo hiểm đã được thừa nhận trên thế giới. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên trong Luật KDBH Việt Nam, nguyên tắc trung thực tuyệt đối được ghi nhận, nhưng thế nào là "trung thực nhất", “tin tưởng tuyệt đối” chưa được làm rõ.

Luật KDBH (sửa đổi) 2022 quy định về nội dung thỏa thuận của hợp đồng bảo hiểm giữa DNBH và BMBH tại Điều 14, nghĩa vụ cung cấp thông tin tại Điều 19, thay đổi mức độ rủi ro được bảo hiểm tại Điều 20, các điều khoản về sửa đổi hợp đồng bảo hiểm... Do đó, nguyên tắc về lòng tin cao nhất sẽ điều chỉnh các quy định cụ thể đề cập việc thỏa thuận giữa DNBH và bên mua bảo hiểm.

Trên thực tiễn, các quốc gia theo hệ thống thông luật khá dè dặt trong việc ghi nhận nghĩa vụ đàm phán thiện chí, ngoại trừ những loại hợp đồng đòi hỏi sự thiện chí, trung thực từ các bên tham gia đàm phán ngay từ đầu như hợp đồng bảo hiểm. Trong khi đó, các quốc gia theo hệ thống dân luật đều ghi nhận nguyên tắc thiện chí, trung thực trong pháp luật dân sự, và áp dụng nguyên tắc thiện chí, trung thực cho các giai đoạn xác lập và thực hiện hợp đồng.[25]

Do đó, so với nguyên tắc thiện chí, trung thực đã được thừa nhận từ lâu trong pháp luật dân sự Việt Nam, liệu nguyên tắc trung thực tuyệt đối có tạo ra những vấn đề giải thích và áp dụng pháp luật khác biệt so với nguyên tắc thiện chí, trung thực?

Nguyên tắc thiện chí, trung thực là nguyên tắc nền tảng, cơ bản chi phối quan hệ dân sự bao gồm quan hệ hợp đồng bảo hiểm, đã được ghi nhận từ lâu trong pháp luật dân sự Việt Nam. Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995 đã chính thức ghi nhận nguyên tắc thiện chí, trung thực tại Điều 9, theo đó “trong quan hệ dân sự, các bên phải thiện chí, trung thực, không chỉ quan tâm, chăm lo đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà còn phải tôn trọng, quan tâm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, không bên nào được lừa dối bên nào; nếu một bên cho rằng bên kia không trung thực thì phải có chứng cứ”.

Nguyên tắc thiện chí, trung thực tiếp tục được duy trì tại Điều 6, BLDS năm 2005 với nội hàm thay đổi, mở rộng phạm vi điều chỉnh không chỉ áp dụng trong việc “thực hiện” mà còn cả trong việc “xác lập” quyền, nghĩa vụ dân sự. Điều 6 quy định “trong quan hệ dân sự, các bên phải thiện chí, trung thực trong việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, không bên nào được lừa dối bên nào”.

Khoản 3 Điều 3 BLDS năm 2015: “Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực.” Quy định trong BLDS hiện hành tiếp tục khẳng định việc cho phép áp dụng nguyên tắc thiện chí, trung thực không chỉ cho giai đoạn thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự mà còn cả cho giai đoạn xác lập.

Ở các nước theo hệ thống dân luật, nguyên tắc thiện chí có nguồn gốc từ luật La Mã cổ đại, nó được gọi là "bona fide" trong tiếng Latinh. "Fide" có nghĩa là "những gì đã được thực hiện", Cicero[26] giải thích "fides" là “Dictorum Conventionorumque Constantia et veritas” (trung thực tuân theo lời nói và thỏa thuận của chúng ta)[27], “Bona” có nghĩa là “tốt”. Theo nguyên tắc này, việc che giấu bất kỳ sự kiện quan trọng nào mà bên kia không biết đều bị cấm trong tất cả các loại hợp đồng và việc vi phạm nghĩa vụ này khiến bên bị vi phạm hủy bỏ hợp đồng.[28] Trong luật La Mã, nguyên tắc thiện chí còn được xem là một nguyên tắc giải thích hợp đồng, giúp thẩm phán giải thích và bổ sung hợp đồng.[29]

Tóm lại, đối với các quốc gia theo hệ thống dân luật, nguyên tắc trung thực, thiện chí là nguyên tắc nền tảng của mọi giao dịch dân sự, áp dụng không chỉ ở giai đoạn thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, mà còn quy định trong giai đoạn xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự. Nội dung của nguyên tắc thiện chí, trung thực là cá nhân, pháp nhân khi tham gia giao dịch dân sự phải hợp tác, giúp đỡ nhau để xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Mỗi bên không chỉ quan tâm đến lợi ích của mình mà còn phải quan tâm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân khác, của Nhà nước và xã hội. Cùng với việc quan tâm, tôn trọng các lợi ích hợp pháp của người khác, các bên tham gia giao dịch dân sự còn phải tìm mọi biện pháp cần thiết để thực hiện các cam kết, thỏa thuận và hạn chế các thiệt hại gây ra cho nhau. Do đó, nguyên tắc “thiện chí, trung thực” được xem là nguyên tắc pháp lý bao trùm điều chỉnh mối quan hệ hợp đồng ngay cả khi thiếu quy định cụ thể cho những hoàn cảnh cụ thể ở giai đoạn xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.

Như vậy, trong pháp luật dân sự Việt Nam, pháp luật hợp đồng Việt Nam bao gồm cả hợp đồng bảo hiểm, nguyên tắc trung thực, thiện chí là nguyên tắc nền tảng để thiết lập chi tiết các quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với các bên trong hợp đồng. Đối với hợp đồng bảo hiểm, nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm ở giai đoạn tiền hợp đồng được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc trung thực, thiện chí đối với các bên tham gia đàm phán hợp đồng bảo hiểm.[30] Vì quan hệ bảo hiểm là quan hệ chia sẻ rủi ro giữa bên mua bảo hiểm và DNBH, nên ở giai đoạn tiền hợp đồng, các bên phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực, từ đó DNBH có thể đánh giá chính xác rủi ro, và quyết định chấp nhận bảo hiểm hay không? Nghĩa vụ cung cấp thông tin chủ yếu được thực hiện ở giai đoạn tiền hợp đồng, và sau đấy là trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, khi có sự tăng, giảm rủi ro được bảo hiểm, thay đổi hay làm mới hợp đồng, bên mua bảo hiểm cũng phải thiện chí cung cấp các thông tin thay đổi gắn liền với rủi ro được bảo hiểm cho DNBH, và trong trường hợp cần thiết các bên đàm phán điều chỉnh việc tăng giảm phí bảo hiểm tương ứng với mức độ rủi ro được bảo hiểm.[31]

Do đó, nghĩa vụ cung cấp thông tin trong giao kết hợp đồng bảo hiểm phản ánh nguyên tắc pháp lý thiện chí, trung thực trong xác lập, thực hiện hợp đồng nói chung từ giai đoạn tiền hợp đồng, đến giai đoạn thực hiện hay chấm dứt hợp đồng. Phạm vi áp dụng của nguyên tắc trung thực, thiện chí trong pháp luật Việt Nam bao quát tất cả các giai đoạn của hợp đồng bảo hiểm, chứ không chỉ duy nhất gắn liền giai đoạn tiền hợp đồng như nguyên tắc trung thực tuyệt đối trong thông luật.

Ngoài ra, nguyên tắc trung thực, thiện chí chi phối tất cả các nghĩa vụ pháp lý của DNBH, và bên mua bảo hiểm, không chỉ áp dụng riêng với nghĩa vụ cung cấp thông tin ở giai đoạn tiền hợp đồng như nguyên tắc thiện chí tuyệt đối trong thông luật.

Tóm lại, so sánh với các quốc gia thông luật như Anh không thừa nhận nghĩa vụ thiện chí ở giai đoạn đàm phán cho tất cả các loại hợp đồng, các quốc gia ở hệ thống dân luật đều thừa nhận nghĩa vụ đàm phán một cách thiện chí ở giai đoạn tiền hợp đồng đối với tất cả các loại hợp đồng khác nhau bao gồm cả hợp đồng bảo hiểm. Nghĩa vụ thiện chí tiền hợp đồng ngăn cản các bên tiến hành đàm phán mà không có ý định giao kết hợp đồng, ngăn cấm các hành vi có khả năng gây tổn hại vật chất cho bên kia, và buộc các bên phải tôn trọng nghĩa vụ bảo mật thông tin.[32]

Như vậy, tác giả bài viết cho rằng sự ghi nhận mới nguyên tắc trung thực tuyệt đối trong Luật KDBH (sửa đổi) 2022 không tạo ra nguyên tắc  pháp lý nào mới mẻ, mà là sự nhấn mạnh có mục đích về nghĩa vụ trung thực, thiện chí trong việc cung cấp thông tin ở giai đoạn đàm phán hợp đồng bảo hiểm. Mặc dầu, sự ghi nhận từ ngữ như "tin tưởng tuyệt đối" hay "nhất" có thể dẫn đến những yêu cầu giải thích hoặc nhầm lẫn khi so sánh hai nguyên tắc pháp lý: nguyên tắc trung thực tuyệt đối và nguyên tắc trung thiện chí, trung thực.

 3.     Vài lưu ý liên quan đến áp dụng nguyên tắc trung thực tuyệt đối trong Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) 2022 

Nhìn chung, nguyên do chủ yếu dẫn tới sự hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin của các bên trong hợp đồng bảo hiểm xuất phát từ việc phải đảm bảo sự tồn tại, vận hành của nguyên tắc thiện chí, trung thực.[33] Do đó, xét về mặt ngôn ngữ và ý nghĩa pháp lý, nguyên tắc trung thực tuyệt đối không mở ra một ý nghĩa khác biệt so với nguyên tắc thiện chí, trung thực trong pháp luật dân sự Việt Nam. 

Ngược lại, do sự diễn đạt ngôn ngữ, thuật ngữ “trung thực tuyệt đối” có thể gây ra sự khó hiểu đối với chủ thể thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Trong khi đó “thiện chí tuyệt đối” hay “trung thực tuyệt đối” trong pháp luật bảo hiểm Anh còn phản ánh việc ghi nhận nghĩa vụ đàm phán thiện chí trong hợp đồng bảo hiểm khác biệt với các hợp đồng thương mại khác.

Ngoài ra, nguyên tắc trung thực tuyệt đối trong pháp luật bảo hiểm Anh còn được làm rõ nhờ vào việc thẩm phán giải quyết tranh chấp, giải thích pháp luật, hình thành nên các án lệ về bảo hiểm. Từ đó, các yếu tố xác định sự vi phạm nghĩa vụ như yếu tố “thông tin quan trọng”, hoặc sự mở rộng áp dụng nguyên tắc trung thực tuyệt đối ở giai đoạn sau ký kết hợp đồng bảo hiểm, hoặc kê khai hồ sơ yêu cầu bồi thường…sẽ được bổ sung, hoàn thiện thêm thông qua hệ thống phán quyết các vụ tranh chấp bảo hiểm.

Từ sự khác biệt về nguồn gốc nguyên tắc pháp lý trong đó nguyên tắc trung thực tuyệt đối trong hệ thống thông luật, nguyên tắc thiện chí, trung thực trong hệ thống dân luật, và việc đảm bảo xây dựng nguyên tắc pháp lý hài hòa với hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam, tác giả không ủng hộ giải pháp thừa nhận câu chữ "trung thực tuyệt đối" đã nêu trong Luật KDBH (sửa đổi) 2022. Thay vào đó, pháp luật bảo hiểm nên tiếp tục ghi nhận nguyên tắc trung thực, thiện chí của pháp luật dân sự trong Luật KDBH. Và từ nguyên tắc này, nhà làm luật cần hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của các bên trong hợp đồng bảo hiểm ở giai đoạn đàm phán hợp đồng hay giai đoạn thực hiện hợp đồng trên tinh thần trung thực, thiện chí.

Tuy nhiên, việc ghi nhận nguyên tắc trung thực tuyệt đối trong Luật KDBH (sửa đổi) 2022 đã phản ánh giá trị tích cực trong việc nhấn mạnh tinh thần thiện chí, trung thực khi các bên đàm phán hợp đồng bảo hiểm. Điều này sẽ góp phần giảm thiểu việc phát sinh tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ thông tin của BMBH hay DNBH, và gia tăng niềm tin, sự thiện chí tiến hành đàm phán của các bên, thúc đẩy sự phát triển của thị trường.

Cuối cùng, dù là ghi nhận nguyên tắc trung thực tuyệt đối hay nguyên tắc thiện chí, trung thực, vai trò của thẩm phán hay cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong quá trình xét xử sẽ góp phần quan trọng làm rõ các trường hợp áp dụng nguyên tắc pháp lý, các nghĩa vụ mô tả nguyên tắc sẽ không bị giới hạn trong các quy định pháp luật sẵn có, mà được Thẩm phán linh hoạt xem xét đánh giá dựa trên nguyên tắc pháp lý phù hợp, tìm hướng giải quyết tranh chấp bảo hiểm một cách công bằng, hợp lý.[34] 

Do đó, bên cạnh thúc đẩy việc ghi nhận nguyên tắc pháp lý trong Luật KDBH, vai trò của các cơ quan tư pháp cũng quan trọng trong việc phân xử tranh chấp đảm bảo sự công bằng đối với các bên trong quan hệ hợp đồng và việc áp dụng nguyên tắc pháp lý cần xuất phát từ  bản chất hoạt động giao kết, thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Đây sẽ là những yếu tố góp phần làm rõ các nguyên tắc mới được ghi nhận trong Luật KDBH (sửa đổi) 2022.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.               Bộ luật Dân sự 2015

2.               Dự thảo Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi)

3.               Đạo luật bảo hiểm hàng hải Anh 1906

4.               Charles Wild, Stuart Weinstein, Smith & Keenan’s English Law, 16th ed., Nxb.Longman, 2010.

5.               Bạch Thị Nhã Nam, Bùi Thị Hằng Nga, Pháp luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2020.

6.               Bryan Garner, et al., Black’s Law Dictionary,9th ed., Thomson Reuters, 2009.

7.               Đỗ Thành Trung, Chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của Tòa án Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, 2020.

8.               Eggers, et al., Good Faith and Insurance Contract, 3rd edition, Nxb. Informa Law, 2010.

9.               H. Collins, The Law of Contract, LexisNexis, 4th edition, 2003.

10.            H. Beale, A. Hartkamp, H. Kotz, D. Tallon eds., Cases, Materials and Text on Contract Law, Hart Publishing, 2002.

11.            Howard Bennett, The Law of Marine Insurance,  Oxford University Press, 1996.

12.            Rene David, John E.C. Brierley, Major Legal Systems in the World Today, 3rd ed, London, Nxb.Stevens, 1985.

13.            Reinhard Zimmermann, Roman Law, Contemporary Law, European Law: the Civilian Tradition Today, Nxb. Oxford University Press, 2001.



[1]  Số liệu về ngành bảo hiểm ở Vương quốc Anh - thống kê & các sự kiện, được công bố bởi Phòng Nghiên cứu Statista, (25/8/ 2021), tra cứu tại: https://www.statista.com/topics/4511/insurance-industry-uk/, truy cập ngày 10/1/2022.

[2] Ajomo K, Modern Nigerian Law of Insurance, Lagos: University of Lagos Press, 2003, tr.1.

[3] Swiss Reinsurance Company Ltd, A History of UK insurance, 2003, https://www.swissre.com/dam/jcr:e8613a56-8c89-4500-9b1a-34031b904817/150Y_Markt_Broschuere_UK_EN.pdf, truy cập ngày 10/1/2022.

[4] Christopher Tay, The Duty of Disclosure and Materiality in Insurance Contracts – A True Descendant of
the Duty of Utmost Good Faith? , 13 Insurance Law Journal, 2002, tr.186.

Tlđd.

[5] Christopher Tay, Tlđd.

[6] Rene David, John E.C. Brierley, Major Legal Systems in the World Today, 3rd ed. (London: Stevens,
1985) tr..311- tr.314; Christopher Tay, Tlđd, tr.186-tr.187

[7] Eggers, et al., Good Faith and Insurance Contract, đoạn văn 1.12

[8] Walford v Miles [1992] 2 AC 128.

[9] Charles Wild, Stuart Weinstein, Smith & Keenan’s English Law (16th ed., Longman, 2010), tr. 338 – tr.339;
Eggers, et al., Good Faith and Insurance Contract, para 1.09

[10] Bryan Garner, et al., Black’s Law Dictionary (9th ed., Thomson Reuters, 2009)

[11] Carter v. Boehm (1766) 3 Burr 1905.

[12] Carter v. Boehm (1766) 3 Burr 1905 at 1909-1910.

[13] Trong bài viết này, nguyên tắc utmost good faith được dịch là nguyên tắc trung thực tuyệt đối để tương thích với Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam 2022, dù đôi chỗ trong bài viết là nguyên tắc thiện chí tuyệt đối, tuy nhiên, hai cách diễn đạt này không tạo ra ý nghĩa pháp lý khác biệt.

[14] Akanki, E.O. ed. Commercial Law in Nigeria. Lagos: University of Lagos Press; 2007 tr.67.

[15] Elizabeth Germano, “A law and economic analysis of the duty of utmost good faith (Uberrimae fidei) in marine insurance law for protection and indemnity clubs”, St’s Mary Law Journal, 2016, Vol.47:727, tr.741.

[16] Phần 17, MIA 1906.

[17] IBA Insurance Committee, 2014, The Duty of Utmost Good Faith, The Duty of Utmost Good Faith: United Kingdom, tr.171.

[18] Phần 20, MIA 1906.

[19] Howard Bennett, The Law of Marine Insurance, Oxford University Press, 29/8/1996, tr. 116.

[20] Bryan Garner, et al., Black’s Law Dictionary (9th ed., Thomson Reuters, 2009).

[21] Trong phán quyết tranh chấp bảo hiểm giữa Berger & Light Diffusers Ltd v Pollock [1973] 2 Lloyd’s Rep. 442, thẩm phán cho rằng, việc không tiết lộ thông tin hoặc trình bày sai thông tin quan trọng là yếu tố khách quan, những hành vi vi phạm này đã khiến DNBH phải giao kết hợp đồng theo các điều khoản đã thỏa thuận là yếu tố chủ quan phải được xem xét đến để tuyên hợp đồng bảo hiểm hàng hải vô hiệu.

[22] Xem toàn văn Dự thảo Luật KDBH công bố tại https://duthaoonline.quochoi.vn, truy cập ngày 10/1/2022.

[23] Xem thêm Học thuyết của Ronald Dworkin về sự toàn vẹn của pháp luật được trình bày trong tác phẩm “Law’s Empire”, là một trong những học thuyết pháp lý đương đại có ảnh hưởng nhất vê bản chất của pháp luật.

[24] Peter MacDonald Eggers, Simon Picken, Good Faith and Insurance Contracts, 4th Ed, 2017, NXB.Informa Law from Routledge.

 [26] Marcis Tullius Cicero (BC106-BC43), nhà tư tưởng nổi tiếng ở La Mã cổ đại

[27] Marcis Tullius Cicero, On Obligations (De Officiis), được dịch với phần giới thiệu và ghi chú bởi P.G.
Walsh (Nxb.Oxford University Press, New York, 2000) tr.10, "fides" được dịch là "những gì được hứa hẹn trở thành sự thật”; Marcis Tullius Cicero, On Obligations (De Officiis), với một bản dịch tiếng Anh của Walter Miller (Nxb.William Heinemann, London, 1913) tại đoạn văn 23, Hiệp hội Hiến pháp, http://www.constitution.org/rom/de_officiis.htm, Walter Miller đã dịch “fides” là "sự thật và trung thành với những lời hứa và thỏa thuận".

[28] Christopher Tay, Tlđd.

[29] Reinhard Zimmermann, Roman Law, Contemporary Law, European Law: the Civilian Tradition Today, Nxb. Oxford University Press, 2001, tr.84.

[30] Bạch Thị Nhã Nam, Trách nhiệm cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm giai đoạn tiền hợp đồng, Chuyên san Luật học, Tạp chí Khoa học ĐHQG Hà Nội, Tập 36, Số 3 (2020) 74-84.

[31] Xem Điều 20, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, sửa đổi bổ sung 2010, 2019.

[32] H. Beale, A. Hartkamp, H. Kotz, D. Tallon eds., Cases, Materials and Text on Contract Law, Hart Publishing, 2002, tr.243.

[33] Bạch Thị Nhã Nam, Bùi Thị Hằng Nga, Pháp luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2020, tr.65.

[34] Đỗ Thành Trung, Chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của Tòa án Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, 2020,  tr.37 – tr.40.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 22/2018/AL VỀ NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG TIN CỦA BÊN MUA BẢO HIỂM

Trách nhiệm cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm giai đoạn tiền hợp đồng

NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG TIN TIỀN HỢP ĐỒNG DƯỚI GÓC NHÌN KINH TẾ HỌC PHÁP LUẬT