GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM VÀ CÁC LƯU Ý KHI ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC CONTRA PROFERENTEM
GIẢI
THÍCH HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM VÀ CÁC LƯU Ý KHI ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC CONTRA PROFERENTEM
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Viện nghiên cứu lập pháp, 2020, Số 24(424)
http://lapphap.vn/Pages/TinTuc/211078/Giai-thich-hop-dong-bao-hiem-va-cac-luu-y-khi-ap-dung-nguyen-tac-Contra-proferentem.html
Bạch Thị Nhã Nam
Giảng viên trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG Tp.Hồ
Chí Minh, NCS Đại học Griffith, Úc.
Email: nambtn@uel.edu.vn, Phone: 0983942542
Tóm tắt: Bài viết đề cập vấn đề thực tiễn
liên quan đến những nội dung không rõ nghĩa trong hợp đồng bảo hiểm, và dẫn đến
tranh chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm. Bài viết phân tích
những nguyên tắc pháp lý chung khi giải thích hợp đồng bảo hiểm và vận dụng
nguyên tắc contra proferentem – chống lại nhà soạn thảo hợp đồng bảo hiểm khi
giải thích hợp đồng bảo hiểm. Từ thực tiễn phân tích án lệ số 22/2018/AL, tòa
án đã áp dụng nguyên tắc giải thích contra proferentem về giải thích hợp đồng bảo
hiểm để giải quyết tranh chấp khi các bên có cách hiểu không thống nhất về yêu
cầu nêu ra tại đơn yêu cầu bảo hiểm, và khuyến nghị các lưu ý khi áp dụng
nguyên tắc contra proferentem trong các tranh chấp về giải thích hợp đồng bảo
hiểm.
The article deals
with practical issues related to ambiguous contents in insurance contracts, and
leads to disputes between insurers and policyholders. The article analyzes
general legal principles when interpreting insurance contracts and applies the
principle of contra proferentem – against the drafter of an insurance contract.
Based on analyzing case law No. 22/2018/AL, the court has applied the principle
of contra proferentem on the interpretation of insurance contracts to settle
disputes when the parties have disagreements about the application for
insurance, and recommends cautions when applying the principle of contra
proferentem in disputes over the interpretation of insurance contracts.
Keywords: contract
interpretation, insurance contract, contra proferentem…
1 Sự tồn tại những nội dung không rõ nghĩa trong hợp
đồng bảo hiểm
Các
tranh chấp liên quan đến ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm trong thực tiễn phát
sinh chủ yếu do các nguyên nhân sau: ngôn ngữ không chính xác, tối nghĩa
trong hợp đồng, hoặc do cấu trúc sắp xếp điều khoản không rõ ràng của hợp đồng,
hoặc do nhận thức khác biệt giữa các bên do thông tin trao đổi không đồng nhất
về cùng một nội dung trong hợp đồng.[1]
Có
những hình thức thể hiện đối với trường hợp ngôn ngữ không chính xác trong hợp
đồng bảo hiểm ví dụ như sự không rõ nghĩa của một thuật ngữ trong hợp đồng do
thuật ngữ đó đa nghĩa, tạo nhiều cách hiểu khác nhau,[2] hay sự không rõ nghĩa do cấu
trúc ngữ pháp phức tạp, hoặc do sự tối nghĩa của thuật ngữ không thuần tiếng Việt…
Đối
với trường hợp cấu trúc điều khoản không rõ ràng của hợp đồng bảo hiểm (HĐBH),
việc không rõ ràng này khiến người mua hiểu nhầm hoặc không được thông tin
chính xác về phạm vi bảo hiểm của hợp đồng, hoặc điều khoản loại trừ trách nhiệm
bảo hiểm. Ví dụ trong phán quyết Fleming và United Services Automobile Ass’n,[3] người chủ tài sản cho thuê
đã kiện doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) vì DNBH đã từ chối chi trả bảo hiểm do áp
dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm do ô nhiễm. Tòa án bảo vệ bên mua bảo hiểm
vì cho rằng nội dung loại trừ do ô nhiễm được sắp xếp trong hợp đồng bảo hiểm hỏa
hoạn ở cùng mục “Những rủi ro được bảo hiểm”. Điều này vi phạm đạo luật bảo hiểm
hỏa hoạn của tiểu bang Oregon, Hoa Kỳ (đoạn 2 của phần 742.246 trong đạo luật),
"bất kỳ điều khoản nào trong hợp đồng bảo hiểm hỏa hoạn hạn chế nghiêm
ngặt hoặc loại bỏ bớt quyền lợi bảo hiểm của người được bảo hiểm phải được sắp
xếp sau một tên tiêu đề bao quát, mang đủ ý nghĩa giải thích nội dung bên dưới, và tiêu đề phải
được in hoặc viết bằng cỡ chữ không nhỏ hơn cỡ chữ in hoa tám chấm (tương đương
2.822 mm).” Nội dung loại trừ xuất hiện trong cùng một tiêu đề với các
rủi ro được bảo hiểm khiến hợp đồng này không đảm bảo sự rõ ràng, tiêu đề không
giải thích được nội dung sẽ bao gồm cả các điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo
hiểm.[4]
Đối
với việc nhận thức mập mờ về các thông tin trao đổi giữa các bên, bên mua bảo
hiểm thường nhận được các thông tin nói hoặc viết từ phía nhân viên doanh nghiệp
bảo hiểm, hay đại lý bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm, bao gồm tài liệu giới
thiệu sản phẩm bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn yêu cầu bảo hiểm, và những
lời giải thích bằng lời nói liên quan đến hình thức hợp đồng bảo hiểm, hay nội
dung hợp đồng bảo hiểm. Đôi khi các giải thích bằng lời nói không thống nhất hoặc
trái ngược với các điều khoản viết trong hợp đồng bảo hiểm, hoặc cách diễn đạt
khác nhau trong đơn yêu cầu bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm cho cùng một nội
dung….Do đó, tranh chấp phát sinh giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm
về cách hiểu chung đối với các điều khoản HĐBH chỉ có thể được giải quyết bằng
các kỹ thuật giải thích hợp đồng bảo hiểm.[5]
Nguyên
nhân của những nội dung mơ hồ, không rõ nghĩa trong hợp đồng bảo hiểm được lý
giải một phần do các đặc trưng của hoạt động bảo hiểm bên cạnh các lý do về kỹ
thuật soạn thảo ngôn ngữ trong hợp đồng nói chung. Nhiều hợp đồng bảo hiểm được
xây dựng để bảo hiểm cho các sự kiện rủi ro trong tương lai không chắc chắn và
không lường trước được, nên đối tượng của HĐBH trừu tượng và vô hình.[6] Vì vậy, bên soạn thảo
thông thường lựa chọn cách diễn đạt chung và khái quát nội dung để có thể áp dụng
bao quát cho mọi trường hợp. Do đó, khi được áp dụng vào một tình huống cụ thể
sẽ xuất hiện nhiều cách giải thích đa dạng đối với ngôn ngữ hợp đồng. Hơn nữa,
ngành bảo hiểm phát triển nhanh chóng dẫn đến tình trạng giao kết phụ thuộc vào
hợp đồng theo mẫu được soạn sẵn theo những thể thức và nội dung nhất định.[7] Điều này dẫn đến nhiều trường
hợp ngôn ngữ được sử dụng theo khuôn mẫu, không chính xác trong các trường hợp
khác nhau, đồng thời điều này hạn chế khả năng đàm phán, trao đổi, và lựa chọn
ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng của phía người mua bảo hiểm.
Đáng
nói hơn, tại các quốc gia đang phát triển đang ở giai đoạn thị trường bảo hiểm
sơ khai và tiềm năng như Việt Nam, thị trường bảo hiểm bị thống trị bởi các tập
đoàn bảo hiểm nước ngoài,[8] nhiều hợp đồng theo mẫu được
các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện việc dịch thuật từ ngôn ngữ gốc sang ngôn
ngữ thứ hai, gây ra tình trạng ngôn ngữ diễn đạt mơ hồ, khó hiểu.[9] Và nội dung hợp đồng bảo
hiểm thường dài dòng, mang nhiều thuật ngữ chuyên ngành, được soạn thảo bởi các
chuyên gia trong lĩnh vực bảo hiểm, nên tạo ra sự khó hiểu nhất định cho những
người mua bảo hiểm, thông thường là những người không có kiến thức chuyên sâu về
bảo hiểm, [10]
dẫn đến có những cách hiểu sai khác so với nhà soạn thảo – chính là DNBH. Trên
thực tiễn, tại Việt Nam, trong những năm gần đây, các tranh chấp về nội dung
HĐBH thường hay xảy ra, ví dụ như câu hỏi trong mẫu đơn yêu cầu bảo hiểm liên
quan đến bệnh lý “rối loạn dạ dày”, bên mua bảo hiểm (BMBH) không hiểu rằng đây
là bệnh lý bao gồm cả bệnh đau dạ dày như cách hiểu của DNBH,[11] hay tranh chấp liên quan từ
chối chi trả quyền lợi trợ cấp nằm viện vì lý do DNBH cho rằng việc nằm viện
“không cần thiết về mặt y khoa”, thuộc vào điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo
hiểm, trong khi BMBH cho rằng việc nằm viện là “cần thiết về mặt y khoa”…[12]
Khi
giải thích nội dung của hợp đồng bảo hiểm trong các tranh chấp trên, Tòa án Việt
Nam phải áp dụng các nguyên tắc chung về giải thích hợp đồng, áp dụng cho mọi
loại hợp đồng được quy định trong Bộ luật Dân sự (BLDS), và quy định giải thích
đặc thù cho hợp đồng bảo hiểm như Điều 21 của Luật Kinh doanh bảo hiểm (KDBH) hiện hành quy định“Trong
trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì điều khoản đó được
giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm”.
Các
nguyên tắc chung về giải thích hợp đồng được ghi nhận lần đầu tiên trong pháp
luật Việt Nam ở Bộ luật Dân sự 1995, và sau đó ở Bộ luật Dân sự 2005, và Bộ luật
Dân sự 2015. Những nội dung nguyên tắc pháp lý trong pháp luật Việt Nam đã phản
ánh cách tiếp cận linh hoạt, cụ thể bao gồm:[13]
-
Khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì việc giải thích điều khoản đó
không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí của các bên
được thể hiện trong toàn bộ quá trình trước, tại thời điểm xác lập, thực hiện hợp
đồng.
-
Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau
thì phải giải thích theo nghĩa phù hợp nhất với mục đích, tính chất của hợp đồng.
-
Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu thì phải được giải thích theo
tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng.
-
Các điều khoản trong hợp đồng phải được giải thích trong mối liên hệ với nhau,
sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn bộ nội dung hợp đồng.
-
Trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên với ngôn từ sử dụng
trong hợp đồng thì ý chí chung của các bên được dùng để giải thích hợp đồng.
-
Trường hợp bên soạn thảo đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên kia thì khi
giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên kia.
Như
vậy, pháp luật Việt Nam đòi hỏi ưu tiên làm rõ ý chí thực sự, chủ quan của các
bên trong giao dịch, các nhà làm luật Việt Nam đã tán thành học thuyết ý chí thực
của trường phái Latinh.[14] Muốn giải thích hợp đồng
thì phải xác định ý chí chung của các bên, sau đó, dựa vào ý chí chung để phân
tích nội dung hợp đồng, và khi nào ý chí chung không thể xác định rõ, thì mới sử
dụng các công cụ giải thích khác dựa vào sự suy đoán.[15]
Việc
giải thích hợp đồng phải dựa trên cơ sở không làm thay đổi bản chất của hợp đồng,
hay cụ thể hơn là không làm thay đổi ý chí của các bên khi giao kết hợp đồng,
và đảm bảo tính chính xác của nội dung trong hợp đồng, và mối liên hệ giữa các
điều khoản với nhau. Những yếu tố này đóng vai trò căn bản khi xây dựng chế định
về giải thích hợp đồng cũng như trong quá trình thực tiễn áp dụng giải thích nội
dung hợp đồng bảo hiểm.
2. Vận dụng nguyên tắc “contra proferentem” - chống
lại người soạn thảo hợp đồng trong việc giải thích hợp đồng bảo hiểm
Trong
trường hợp giải thích điều khoản có nội dung không rõ ràng trong HĐBH, nguyên tắc
giải thích hay được áp dụng phổ biến nhất là nguyên tắc contra proferetem,
hiểu là “chống lại người soạn thảo”
hoặc “chống lại người đưa ra điều khoản”.
Cụm từ Latin contra proferetem về cơ bản có nghĩa là khi phải lựa chọn
giữa hai ý nghĩa cho một điều khoản mơ hồ, tòa án nên ưu tiên giải thích trái với
lợi ích của bên soạn thảo.[16] Một cách cụ thể, khi xuất
hiện điều khoản mơ hồ trong hợp đồng bảo hiểm, thì việc giải thích sẽ đi ngược
lại ý chí của người soạn thảo điều khoản.[17]
Nguyên tắc contra
proferetem áp dụng khi có điều khoản không rõ nghĩa trong HĐBH được ghi nhận
phổ biến trong nhiều nền tài phán. Xem xét nguyên tắc giải thích HĐBH được đề xuất trong Bộ quy tắc luật hợp đồng bảo
hiểm Châu Âu tại Điều 1: 203 - Ngôn ngữ và giải thích: “(1) Tất cả các tài
liệu được cung cấp bởi công ty bảo hiểm phải rõ ràng và dễ hiểu và bằng ngôn ngữ
mà hợp đồng được đàm phán. (2) Khi có nghi ngờ về ý nghĩa của từ ngữ của bất kỳ
tài liệu hoặc thông tin nào được cung cấp bởi công ty bảo hiểm, việc giải thích
có lợi nhất cho người mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng, nếu
phù hợp, sẽ được áp dụng.”[18]
Tại Pháp, pháp luật Pháp
cũng lựa chọn giải pháp giải thích ưu tiên cho bên mua bảo hiểm trong hợp đồng
bảo hiểm.[19] Giải pháp này được Tòa phá án khẳng định lại như sau: “Theo quy định tại Điều L. 133-2 Bộ
luật tiêu dùng, trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng,
thẩm phán phải giải thích điều khoản đó theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm,
người tiêu dùng”[20].
BLDS
và Luật Kinh KDBH Việt Nam cũng đã quy định nguyên tắc contra proferentem trong việc giải thích hợp đồng theo mẫu nói
chung và hợp đồng bảo hiểm. Cụ thể, trong BLDS 2015 tại Khoản 2 và Khoản 3, Điều
405 “…2. Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ
ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản
đó. 3. Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa
ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của
bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác”; hay Điều 21 của VBHN Luật KDBH hiện hành quy định“Trong
trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì điều khoản đó được
giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm”.
Trong
thực tiễn xét xử, nguyên tắc này được cơ quan giải quyết tranh chấp vận dụng dựa
trên nền tảng rằng DNBH là bên soạn thảo HĐBH, DNBH phải cẩn trọng và có nhiều
khả năng ảnh hưởng đến việc làm rõ nghĩa các điều khoản, từ ngữ trong HĐBH, do
đó DNBH phải chịu trách nhiệm khi có lỗi trong việc soạn thảo khiến HĐBH không
đầy đủ, không rõ nghĩa. Các lập luận cho việc áp dụng nguyên tắc này đã được
phát triển mở rộng dựa trên những đặc điểm riêng biệt trong mối quan hệ bảo hiểm
như bảo vệ người tiêu dùng yếu thế, tính hiệu quả kinh tế. Cụ thể, tính hiệu quả
kinh tế đạt được trong các giao dịch được đảm bảo khi hợp đồng có từ ngữ, điều
khoản tường minh, rõ nghĩa, không gây tốn kém chi phí kiện tụng, tốn thời gian
kiện tụng của các bên để đạt được phán quyết giải thích ý nghĩa hợp đồng. Mục
đích bảo hiểm là giúp người mua bảo hiểm giảm thiểu mọi chi phí do rủi ro có thể
phát sinh, do đó nguyên tắc giải thích bảo vệ quyền lợi của bên mua bảo hiểm,
gây bất lợi cho DNBH đảm bảo phù hợp với mục đích giảm thiểu chi phí của bên
mua bảo hiểm khi họ quyết định tham gia vào quan hệ bảo hiểm.
Ngoài
ra, trong thực tiễn của hợp đồng bảo hiểm, bên soạn thảo hợp đồng và đưa ra hợp
đồng là DNBH, bên
còn lại là bên mua bảo hiểm ít có và thậm chí không có khả năng đàm phán, thay
đổi nội dung mà chỉ có khả năng chấp thuận hoặc từ chối điều khoản (take it or
leave it).[21] Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng thuộc danh mục hàng hóa,
dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu,[22] trong khi đó đối với các
loại hình bảo hiểm khác mặc dù không được quy định bắt buộc phải đăng ký,[23] nhưng hợp đồng bảo hiểm
thông thường được giao kết với việc soạn thảo sẵn nội dung của DNBH, phản ánh bản
chất của hợp đồng theo mẫu.[24]
Việc
sử dụng hợp đồng theo mẫu cho nhiều giao dịch khác nhau đóng vai trò quan trọng
trong việc giảm chi phí và thời gian đàm phán, qua đó tăng hiệu quả kinh tế của
việc giao kết hợp đồng,[25]
đặc biệt trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của thị trường bảo hiểm và việc
phát triển khả năng lưu trữ tính toán dữ liệu lớn của các hàng bảo hiểm.
Tuy nhiên, khi hợp đồng theo mẫu được sử dụng trong
quan hệ bảo hiểm, bên mua bảo hiểm không thực sự có cơ hội thương lượng và thoả
thuận với DNBH, DNBH với tư cách là bên soạn thảo hợp
đồng có thể đưa vào hợp đồng các điều khoản mẫu đã được sử dụng trong các hợp đồng
khác hoặc đưa vào các điều khoản nhằm mang lại lợi ích ưu thế cho DNBH. Việc sử
dụng hợp đồng theo mẫu có nguy cơ tạo ra hợp đồng bất lợi và thậm
chí bất công cho bên mua bảo hiểm, vậy làm thế nào để đảm bảo sự công bằng cho
bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm. Vậy, các điều khoản sẽ được giải
thích như thế nào khi bên yếu thế không có khả năng tác động vào quá trình soạn
thảo hợp đồng?
Vì
vậy, nguyên tắc contra
proferentem - “chống
lại người soạn thảo” được áp
dụng vào
việc giải thích HĐBH nhằm hạn chế,
loại trừ những trường hợp lạm dụng quyền soạn thảo hợp đồng để có lợi cho bên
soạn thảo. Việc áp dụng nguyên tắc này không chỉ bảo vệ sự công bằng giữa các
bên mà còn bảo vệ các nguyên tắc khác trong quan hệ hợp đồng như thiện chí,
trung thực.[26]
Nguyên tắc contra proferentem được áp dụng khi
HĐBH có điều khoản không rõ ràng, việc giải thích phải được tiến hành có
lợi cho bên mua bảo hiểm. Ngoài ra, khi vận dụng nguyên tắc này đối với giải
thích những điều khoản riêng biệt của HĐBH, như điều khoản loại trừ trách nhiệm
bảo hiểm của DNBH, những điều khoản này phải được giải thích giới hạn, trong
khi đó các thỏa thuận về phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm phải được giải
thích mở rộng để đảm bảo việc giải thích có lợi cho bên yếu thế trong quan hệ bảo
hiểm.[27]Việc vận dụng này cũng hoàn toàn phù hợp với Khoản 3, Điều
405 BLDS Việt Nam nhằm hạn chế áp dụng các điều khoản miễn trách
nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu.
Tuy nhiên, khi nào thì tranh chấp về nội
dung điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm giữa các bên sẽ được xem xét là tranh
chấp giải thích điều khoản “không rõ ràng”, hay bất cứ khi nào có xung đột về
việc giải thích từ ngữ, điều khoản trong HĐBH giữa các bên, điều khoản đó đương
nhiên được xem là “không rõ ràng”, và áp dụng nguyên tắc contra proferentem một cách tức thì? Liệu
các nguyên tắc chung về giải thích hợp đồng có được áp dụng trong việc giải
thích điều khoản không rõ ràng trong HĐBH?
Theo thực tiễn phán quyết đối với HĐBH tại Hoa Kỳ,
liên quan đến việc xác định có tồn tại điều khoản không rõ ràng trong
hợp đồng bảo hiểm hay không, và xác định có áp dụng nguyên tắc contra
proferentem hay không,
thì cơ quan giải quyết tranh chấp (Tòa án, trọng tài…) sẽ có thẩm quyền để xác
định liệu có tồn tại điều khoản, thuật ngữ không rõ ràng trong tranh chấp về
giải thích nội dung HĐBH hay không.[28]
Khi ngôn từ trong hợp đồng rõ ràng, thì cơ quan giải quyết tranh chấp không được
phép giải thích thêm để xác định ý định của các bên, chỉ khi nào ngôn từ khó
hiểu, không rõ nghĩa, thì cơ quan giải quyết tranh chấp mới thực hiện việc giải
thích HĐBH. Tham khảo Bộ luật
Dân sự bang Lousiana, Hoa Kỳ: “Khi các từ
trong hợp đồng rõ ràng, Tòa án không thể giải thích thêm để xác định ý định của
các bên giao kết hợp đồng”
Đồng thời, cần phải dựa trên các tiêu chí để
xác định một điều khoản trong HĐBH mơ hồ hoặc không rõ ràng. Ngôn ngữ hợp đồng
mơ hồ, nếu ngôn ngữ mang ý nghĩa khái quát chung và có thể tạo ra hai cách hiểu
đối với một người duy lý thông thường (a reasonable prudent person).[29]
Tiêu chuẩn “người duy lý thông thường” khá phổ biến trong hệ thống thông luật,
được hiểu là người không được đào tạo về các kỹ thuật pháp lý để giải thích hợp
đồng.[30]
Một thuật ngữ trong HĐBH có nghĩa đen
đơn giản, dễ hiểu, cũng có thể trở nên không rõ nghĩa khi được áp dụng vào một
tình huống tranh chấp cụ thể. Một từ có nghĩa đen được áp dụng trong tình huống
này, có thể không còn mang ý nghĩa như vậy khi áp dụng vào tình huống khác.
Khái niệm "không rõ ràng" trong HĐBH thỉnh thoảng là sự mơ hồ, thiếu
rõ ràng trong việc áp dụng nên dễ tạo ra những cách giải thích hợp lý khác
nhau.[31]
Nội dung HĐBH gây tranh chấp giữa các bên không được xem
là tối nghĩa nếu đơn giản chỉ vì nội dung điều khoản phức tạp và cần sự giải
thích. Nội dung đó cũng không tối nghĩa chỉ vì có vài người không hiểu nội dung
của điều khoản trong HĐBH. Quan trọng hơn, không hẳn bất cứ khi nào có tranh
chấp liên quan đến việc giải thích HĐBH, điều này cũng không khiến nội dung
HĐBH tối nghĩa, mơ hồ.
Tóm
lại, trước khi áp dụng nguyên tắc contra proferentem trong giải thích HĐBH, để tránh tình trạng lạm dụng việc giải
thích chống lại người soạn thảo HĐBH bất cứ khi nào có tranh chấp liên quan đến
giải thích điều khoản trong HĐBH, cơ quan giải quyết tranh chấp cần phải xác định sự
tồn tại điều khoản “không rõ ràng”, từ ngữ “tối nghĩa” trong HĐBH gây tranh chấp
giữa các bên.
Tham
khảo kinh nghiệm xét xử tại Hoa Kỳ, sau khi xác định sự tồn tại tranh chấp về nội
dung thuật ngữ, điều khoản trong hợp đồng, Tòa án xem xét nếu HĐBH đã xác định
ý nghĩa của thuật ngữ, cơ quan giải quyết tranh chấp sẽ sử dụng khái niệm được
ghi nhận trong HĐBH, miễn là khái niệm đó không trái với quy định pháp luật. Tiếp
đến, nếu HĐBH không xác định ý nghĩa thuật ngữ, cơ quan giải quyết tranh chấp sẽ
giải thích ý nghĩa thông thường, nghĩa đen của thuật ngữ, trừ khi thuật ngữ đó
được sử dụng mang ý nghĩa chuyên ngành riêng biệt.[32] Khi gặp phải từ ngữ, hay
điều khoản trong HĐBH tạo ra sự không rõ ràng, tối nghĩa, việc giải thích phải
được tiến hành trong tổng thể hài hòa nội dung của cả HĐBH, trong mối quan hệ
giữa các điều khoản với nhau.[33] Những thuật ngữ giống
nhau trong các điều khoản khác nhau của đơn bảo hiểm phải được giải thích thống
nhất. Khi hợp đồng có một điều khoản không rõ nghĩa, điều khoản đó không thể được
giải thích tách rời HĐBH. [34]
Trong thực tiễn xét xử tại Việt Nam, đối
với việc giải thích các thuật ngữ trong HĐBH, Tòa án hiện chưa có lập luận xác
nhận việc tồn tại điều khoản mơ hồ, không rõ nghĩa khi vận dụng nguyên tắc contra
proferentem chống lại
DNBH là bên soạn thảo. Điều này có thể dẫn đến việc lạm dụng nguyên tắc contra proferentem bất cứ khi nào có
tranh chấp về giải thích thuật ngữ, nội dung trong HĐBH.
Xem
xét kỹ án lệ số 22/2018/AL về
vụ án tranh chấp hợp đồng bảo hiểm giữa nguyên đơn là ông Đặng Văn L và bị đơn
là Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ C (sau đây gọi là Công ty C). Bị đơn cho rằng bà H đã vi phạm nghĩa vụ
cung cấp thông tin về tình trạng bệnh lý khi ký hợp đồng bảo hiểm. Cụ thể, tại
câu hỏi số 54 của đơn yêu cầu bảo hiểm ngày 25/3/2009 “Loét đường tiêu hoá,
xuất huyết tiêu hoá, viêm tụy, viêm kết tràng, khó tiêu thường xuyên, khó nuốt,
hoặc rối loạn tại dạ dày, ruột gan hoặc túi mật?”, bà H đã đánh dấu vào ô
không, trong khi theo biên bản hội chẩn số 42/BV-99 ngày 03/9/2009 thể hiện bà
H có tiền sử đau dạ dày hai năm. Bị đơn cho rằng rối loạn tại dạ dày là đau dạ dày, nhưng theo nguyên đơn
thì không có tài liệu, chứng cứ chứng tỏ bệnh đau dạ dày chính là rối loạn tại
dạ dày. Do hai bên có cách hiểu không thống nhất về cụm từ “rối loạn tại dạ
dày” được nêu tại câu hỏi số 54 của đơn yêu cầu bảo hiểm nên đã dẫn đến phát
sinh tranh chấp.
Như vậy, đây là tình huống hai bên trong
quan hệ HĐBH có tranh chấp về nội dung câu hỏi trong đơn yêu cầu bảo hiểm, và
đưa ra các cách hiểu khác biệt nhau, vì vậy, tòa án cần phải làm rõ có tồn tại tranh
chấp về nội dung “không rõ ràng” trong HĐBH. Tuy nhiên, trong vụ án này, Tòa án đã không lập luận để đưa ra phán quyết mà khẳng định rằng cụm từ “rối loạn tại dạ
dày” là ngôn từ của hợp đồng khó hiểu nên đã áp dụng phương pháp giải thích
bằng cách tham chiếu đến tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng để giải thích
hợp đồng theo quy định tại
khoản 4, Điều 409 BLDS năm
2005[35]
“Khi hợp đồng có điều khoản hoặc
ngôn từ khó hiểu thì phải được giải thích theo tập quán tại địa điểm giao kết
hợp đồng”. Tiếp đến, Tòa án lập luận phương pháp này không đưa ra kết quả thích
hợp cho việc giải thích nội dung cụm
từ “rối loạn tại dạ dày”. Do đó, Tòa án
phải áp dụng các phương pháp giải
thích khác, và đã chọn áp
dụng trực tiếp quy định về giải thích hợp đồng theo mẫu để giải thích nội dung tại câu hỏi số 54
của đơn yêu cầu bảo hiểm. Giải thích hợp đồng theo mẫu được quy định tại Khoản 2, Điều 407 BLDS năm 2005 như sau: “Trong trường
hợp hợp đồng dân sự theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp
đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó”[36].
Từ đó, Tòa án đưa ra phán quyết có lợi cho bên mua bảo hiểm là bà H, lựa
chọn cách hiểu “rối loạn dạ dày” không bao gồm bệnh đau dạ dày.
Có thể nhận thấy, vấn đề thứ nhất là Tòa
án đã không triệt để áp dụng các nguyên tắc được quy định tại BLDS khi tiến
hành giải thích hợp đồng. Pháp luật Việt Nam ưu tiên việc xác định ý chí chung
của các bên, cụ thể tại Khoản
1, Điều 409 BLDS năm 2005 “Khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng
thì không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung
của các bên để giải thích điều khoản đó, và khi nào ý chí chung
không thể xác định rõ, thì mới sử dụng các công cụ giải thích khác dựa vào sự
suy đoán.[37] Vấn
đề thứ hai, Tòa án đã không lập luận để chỉ ra sự tồn tại không rõ nghĩa của
thuật ngữ “rối loạn dạ dày” trong đơn yêu cầu bảo hiểm, mà khẳng định đấy là
thuật ngữ “không rõ nghĩa”, và áp dụng
quy định về giải thích hợp đồng theo mẫu. Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
mà bà H tham gia, DNBH đưa ra tất cả các điều khoản của hợp
đồng, nếu BMBH đồng ý tham
gia bảo hiểm đồng nghĩa với việc chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo điều
khoản mà DNBH đã đưa ra, và
không được đàm phán, thoả thuận về việc bổ sung, sửa đổi điều khoản của hợp
đồng bảo hiểm.[38] Vì vậy, HĐBH
nhân thọ trong tranh chấp là hợp
đồng theo mẫu, do đó, theo
quy đinh tại Khoản 2, Điều 407 BLDS năm 2005 thì khi hợp đồng bảo hiểm có điều
khoản không rõ ràng thì doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu bất lợi khi giải thích
điều khoản đó. Bên cạnh đó, việc giải thích hợp đồng bảo hiểm còn được quy định
tại Điều 21 Luật kinh doanh bảo hiểm như sau: “Trong trường hợp hợp đồng bảo
hiểm có điều khoản không rõ ràng thì điều khoản đó được giải thích theo hướng
có lợi cho người mua bảo hiểm”. Do đó, trong vụ án này, cụm từ “rối loạn
tại dạ dày” tại câu hỏi số 54 của Đơn yêu cầu bảo hiểm là một cụm từ không rõ
ràng, do đó, cần giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm là bà H. Mặc
dù Tòa án lựa chọn áp dụng các quy
định về giải thích hợp đồng
theo mẫu và giải thích hợp đồng bảo hiểm để xác định việc ưu tiên cho bên mua
bảo hiểm khi đơn yêu cầu bảo hiểm không rõ ràng là hoàn toàn phù hợp với quy
định pháp luật, tuy nhiên có khiếm khuyết trong việc thiếu lập luận để truy tìm
ý chí chung của các bên trong tranh chấp, và không nêu cơ sở nào để khẳng định
thuật ngữ “rối loạn dạ dày” trong đơn yêu cầu bảo hiểm có ý nghĩa không
rõ ràng, tạo tiền đề để Tòa án áp dụng nguyên tắc giải thích hợp đồng bảo hiểm
theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm.
Án lệ này đã tạo ra một thực tiễn áp dụng nguyên tắc contra
proferentem khi giải
thích HĐBH (bao gồm cả đơn yêu cầu bảo hiểm) chống lại nhà soạn thảo là
DNBH khi có điều khoản hoặc
ngôn từ khó hiểu. Tuy nhiên, trong thời gian tới, các cơ quan xét xử cần
làm rõ hơn khi nào có thể áp dụng nguyên tắc contra proferentem khi
tiến hành giải thích HĐBH để tránh các tình huống lạm dụng nguyên tắc contra
proferentem. Vì việc lạm dụng nguyên tắc contra proferentem sẽ
hoàn toàn đi ngược lại với tình thần pháp luật trong việc xây dựng và áp dụng
nguyên tắc contra
proferentem là nhằm hạn chế bất công, đảm bảo công bằng trong quan hệ hợp đồng bảo
hiểm.
3. Khuyến nghị trình tự áp dụng các nguyên tắc giải
thích hợp đồng bảo hiểm
Trước khi tiến hành giải
thích, tòa án hay cơ quan giải quyết tranh chấp cần xác định có tồn tại sự
không rõ ràng trong ý nghĩa điều khoản, hay thuật ngữ của HĐBH mà các bên đang
có tranh chấp hay không? Nếu ngôn ngữ HĐBH rõ ràng và thể hiện rõ ràng ý định của
các bên, hợp đồng bảo hiểm phải được đảm bảo thực hiện như trong văn bản. Khi
ngôn từ trong hợp đồng rõ ràng, cơ quan giải quyết tranh chấp không thể giải
thích thêm để xác định ý định của các bên. Vì việc giải thích hợp đồng là việc
xác định mục đích của hợp đồng, dựa trên ý chí chung của các bên giao kết hợp đồng.
Nghiên cứu Dự thảo Luật KDBH sửa
đổi 2022, tác giả nhận thấy Ban soạn thảo đã đưa ra những đề xuất sửa đổi Điều
21 hợp lý, khắc phục những cách hiểu tùy tiện khi áp dụng việc giải thích chống
lại DNBH khi có điều khoản không rõ nghĩa trong HĐBH. Cụ thể:
Điều 21. Giải thích hợp đồng bảo
hiểm
1. Khi hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì
việc giải thích điều khoản đó phải căn cứ ngôn từ tại hợp đồng bảo hiểm, ý chí
của doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm được thể hiện trong toàn bộ quá
trình trước, tại thời điểm xác lập, thực hiện hợp đồng.
2. Trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí chung của các
bên với ngôn từ sử dụng trong hợp đồng thì ý chí chung của các bên được dùng để
giải thích hợp đồng.
3. Trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ
ràng dẫn đến có cách hiểu khác nhau thì điều khoản đó được giải thích theo hướng
có lợi cho bên mua bảo hiểm.
Ý chí chung của các bên như được phản ánh bằng các
từ ngữ trong HĐBH để xác định phạm vi bảo hiểm. Ý chí chung là một thuật ngữ
mang ý nghĩa chủ quan và khách quan. HĐBH được giải thích trước hết theo ý chí
chung mang tính chủ quan của các bên giao kết, và những gì cụ thể mà các bên thực
sự mong muốn. Ý chí chủ quan của HĐBH được suy luận từ ngôn ngữ của hợp đồng hoặc
từ bối cảnh xung quanh việc giao kết và thực hiện hợp đồng.
Nếu không thể xác định ý chí chủ quan của các bên
giao kết, việc giải thích sẽ được chuyển sang giai đoạn tìm kiếm mục đích khách
quan của các bên giao kết. Mục đích khách quan là mục đích được xem xét dựa vào
các lợi ích đúng đắn và hợp lý mà các bên mong muốn khi giao kết hợp đồng.
Trên thực tiễn, ý chí chủ quan của các bên giao kết
HĐBH rất khó xác định vì HĐBH là hợp đồng theo mẫu, không được đàm phán hay chỉnh
sửa theo những mong muốn cụ thể của bên mua bảo hiểm. Do đó, đối với HĐBH, việc
giải thích là nhằm xác định những ý định khách quan chung của các bên giao kết.
Nếu như không thể xác định được những ý định khách
quan chung của các bên giao kết HĐBH, khi đó nguyên tắc contra
proferentem sẽ được áp dụng để giải thích HĐBH theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm.
Nguyên tắc contra
proferentem được xem như là phương tiện cuối cùng để giải quyết tranh chấp liên
quan đến giải thích HĐBH.[39]
Nhằm tránh sự tùy nghi áp dụng nguyên tắc contra
proferentem trong giải thích HĐBH, một trình tự áp dụng các nguyên tắc trong giải
thích HĐBH nên được khuyến nghị để việc giải thích đạt kết quả hợp lý, và đảm bảo
tuân thủ các nguyên tắc pháp lý của việc giải thích. Tóm lại, khi đã xác
định có tồn tại điều khoản, thuật ngữ có ý nghĩa không rõ ràng và phải giải
thích, các nguyên tắc giải thích HĐBH đáng lưu ý bao gồm:
Thứ nhất, các điều khoản trong HĐBH phải được giải thích theo ý nghĩa thông
thường của bên mua bảo hiểm đối với loại sản phẩm bảo hiểm đó, trừ trường hợp
việc sử dụng từ ngữ mang ý nghĩa kỹ thuật và chuyên môn, những từ ngữ được sử
dụng với ý nghĩa kỹ thuật và chuyên môn phải được giải thích theo ý nghĩa
chuyên biệt này. Không được tiến hành giải thích vô lý hoặc gượng gạo để mở rộng hoặc hạn
chế phạm vi áp dụng của điều khoản HĐBH, vượt quá những gì được dự tính một
cách hợp lý trong các điều khoản của HĐBH.
Thứ hai, giải thích một thuật ngữ, hay điều khoản không rõ nghĩa, việc giải thích phải tuân theo các
nguyên tắc giải thích chung về hợp đồng được quy định trong Bộ luật Dân sự.
Điều khoản không rõ nghĩa phải được giải thích trong bối cảnh chung của toàn bộ
HĐBH; trong mối quan hệ với các điều khoản khác của HĐBH. Việc giải thích phải
đảm bảo các kỳ vọng hợp lý của các bên dựa trên thực tiễn và tập quán của ngành
bảo hiểm.
Thứ
ba, nếu sau khi áp dụng các quy
tắc chung về giải thích hợp đồng, sự mơ hồ vẫn còn tồn tại, điều khoản không rõ
nghĩa trong HĐBH sẽ được giải thích theo hướng có lợi cho người được bảo hiểm.
Khi đó, các thỏa thuận về phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm được giải
thích theo xu hướng mở rộng phạm vi áp dụng, trong khi đó các điều khoản loại
trừ trách nhiệm bảo hiểm, giới hạn trách nhiệm bảo hiểm sẽ được giải thích theo
xu hướng thu hẹp phạm vi áp dụng.
Tài liệu tham khảo
1.
Dudi Swartz (2008), Interpretation and
disclosure in insurance contracts, Loyola Consumer Law Review, Volume
21, Issue 2.
2.
François Terré,
Philippe Simbler, Yves Lequette, François Chénedé, Les obligations, Nxb.
Dalloz, Tái bản lần thứ 12, Paris, 2018.
3.
James M.Fischer (1992), Why are insurance contracts subject to special rules of interpretation?Text versus
Context, 24 Ariz. St. L.J. 995 , 1004-05.
4.
Kenneth S. Abraham (1997), A Theory
of Insurance Policy Interpretation, 95
MICH. L. REV. 531.
1.
Louis Perdrix, Bộ
luật bảo hiểm và tương trợ năm 2021, giải thích và bình luận, Nxb. Dalloz,
Paris, 2021.
2.
Nguyễn
Ngọc Điện (2018), Giáo trình Luật Dân sự (Tập 2), NXB. Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.
3.
Tom Baker, Kyle D. Logue (February 23, 2017), Insurance Law and Policy: Cases and Materials, 4 th edition Wolters Kluwer.
4.
Robert H Jerry, Douglas R Richmond (1996), Understanding Insurance Law,
2nd edition, Carolina Academic Press LLC.
[1] E. Allan Farnsworth (1967), Meaning in the Law of Contracts, 76 Yale Law Review 939, https://digitalcommons.law.yale.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=5853&context=ylj, truy cập ngày 30/12/2021. Xem thêm E. Allan Farnsworth, Zachary
Wolfe (2020), Farnsworth on Contracts, Fourth Edition, Chapter 7: The
Law of the Contract: Interpretation and Omitted Cases, Wolters Kluwer Legal
& Regulatory U.S.
[2] Xem Án lệ số 22/2018/AL về không vi phạm nghĩa vụ cung cấp
thông tin tình trạng bệnh lý trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, được Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố
theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao. Án lệ liên quan đến giải thích thuật ngữ “rối loạn dạ dày”
trong đơn yêu cầu bảo hiểm có bao gồm bệnh đau dạ dày khi bên mua bảo hiểm cho
rằng thuật ngữ “rối loạn dạ dày” không bao gồm bệnh đau dạy dày, đối lập với
cách hiểu của DNBH.
[3] Xem phán quyết vụ
Fleming v. United States Automobile Ass'n, 144 Or. App.1,.
925 P.2d 140 (1996), đoạn 382- 383 của Tòa án tối cao tiểu bang Oregon Hoa Kỳ.
Toàn văn phán quyết có thể truy cập tại https://www.courtlistener.com/, truy cập ngày 30/12/2021.
[4] Trong phán quyết này, Tòa án tối cao Oregon
cho rằng hợp đồng bảo hiểm không đảm bảo các các định dạng kỹ thuật, bao gồm cả
điều khoản loại trừ trong nội dung phạm vi bảo hiểm, đây là một lỗi soạn thảo
nghiêm trọng. Tuy nhiên, các Tòa án khác thì không cùng quan điểm, và một số
Tòa án đã từ chối áp dụng các quy định hạn chế về hình thức trình bày trong hợp đồng bảo hiểm, không
buộc DNBH phải tuân thủ các quy định về cỡ chữ,
sự nổi bật của tiêu đề chính và kiểu chữ, đồng thời nhấn mạnh nghĩa vụ đọc
HĐBH của bên mua bảo hiểm. Xem thêm Harold Weston (2004), “Fleming v. USAA: The tale of the coverage
grant that ate the exclusions”, Tort Trial &
Insurance Practice Law Journal”,Vol.40, No.1, tr.107-121,
https://www.jstor.org/stable/25763708, truy cập ngày 30/12/2021.
[5]
Ví dụ như tranh chấp xoay quanh thông tin liên quan đến nghề nghiệp của người
được bảo hiểm được mô tả trong đơn yêu cầu bảo hiểm là “Nghĩa vụ công việc văn
phòng”, trong khi trong hợp đồng bảo hiểm mô tả nghề nghiệp bao gồm “Nghĩa vụ
công việc văn phòng và nghĩa vụ đi lại”. Xem toàn văn phán quyết vụ N.Am.Accident
Ins. Co.v.Anderson, 100 F.2d 452 (10th Cir. 1938) tại trang https://casetext.com/, truy
cập ngày 30/12/2021.
[6]
Không giống như hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường, người mua hàng có thể
xác định, kiểm tra hàng hóa vào thời điểm mua, còn trong hợp đồng bảo hiểm đối
tượng được trao đổi (sự đối ứng - theo Thông luật) là vô hình và trừu tượng vì
không biết được khi nào sự kiện bảo hiểm - như tử vong xảy ra và xảy ra theo
cách thức nào. Chỉ đến khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, người mua bảo hiểm mới biết
được rằng chính xác là “hàng hóa bảo hiểm” được mua là gì, và bản chất giao dịch
bảo hiểm.
[7] Hợp
đồng bảo hiểm được xem là hợp đồng theo mẫu. Xem phân tích ở phần sau về nguyên
tắc giải thích HĐBH.
[8]
Xem thông tin Niên giám thị trường bảo hiểm Việt Nam qua các năm được công bố bởi
Cục quản lý, giám sát bảo hiểm, Bộ Tài Chính công bố trên: https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/cqlgsbh/r/m/ngttbh, truy
cập ngày 30/12/2021.
[9]
Ví dụ về cách diễn đạt dài dòng, với nhiều vế câu nối tiếp ở thể dạng câu phức,
câu ghép hay gặp trong các Quy tắc sản phẩm bảo hiểm: xem xét nội dung điều khoản
loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong “Quy tắc bảo hiểm mọi rủi ro tài sản” của
Liberty Việt Nam, Liberty không bảo hiểm cho các “thiệt hại đối với tài sản
mà tại thời điểm xảy ra thiệt hại đang được bảo hiểm hoặc lẽ ra được bảo hiểm bởi
bất cứ đơn bảo hiểm hàng hải nào, nếu như không có sự tồn tại của Hợp đồng Bảo
hiểm này, nhưng Hợp đồng Bảo hiểm này không loại trừ phần thiệt hại vượt quá số
tiền lẽ ra có thể được bồi thường theo đơn bảo hiểm hàng hải cho dẫu là đơn bảo
hiểm này có được ký kết hay chưa”, https://www.libertyinsurance.com.vn/en/business-insurance-site/Documents/Policy%20Wordings/Property-BI/UW-FPA-W-001-04-V_PAR-Wording.pdf, truy
cập ngày 30/12/2021.
[10]Sự khó hiểu khi đọc hợp đồng bảo hiểm,
xem thêm Robert H. Jerry II, Douglas S. Richmond Robert H. Jerry II, Douglas S. Richmond (2012), Understanding Insurance Law, Fifth Edition, LexisNexis, tr.139.
[11] Xem Án lệ số 22/2018/AL về
không vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin tình trạng bệnh lý trong hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày
17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng
11 năm 2018.
[12] Xem bản án 599/2018/DS-PT
ngày 20/06/2018 “V/v tranh chấp quyền lợi bảo hiểm trợ cấp nằm viện” của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
[14] Nguyễn Ngọc Điện (2018), Giáo
trình Luật Dân sự (Tập 2), NXB. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
tr.105.
[15] Nguyễn Ngọc Điện (2018), Tlđd,
tr.105.
[16]Xem A. Corbin, Contracts §
24.27, at 282-83 (1998). Xem thêm phán quyết vụ Amodio
v. Amodio, 253 Conn. 910, 754 A.2d 160 (2000).
[17] Kenneth S. Abraham (1997), A Theory
of Insurance Policy Interpretation, 95
MICH. L. REV. 531. Xem thêm Điều 2046, Bộ luật dân sư tiểu bang Louisiana,
nguyên văn: “In case of doubt that cannot be otherwise resolved, a provision
in a contract must be interpreted against the party who furnished its text. A
contract executed in a standard form of one party must be interpreted in case
of doubt in favor of the other party. Rule of strict construction requires that
an ambiguous policy provision be construed against the insurer who issued the
policy and in favor of coverage to the insured.”
[18] Xem toàn văn Bộ nguyên tắc luật hợp đồng bảo hiểm châu
Âu tại:
https://www.ius.uzh.ch/dam/jcr:0e4dca21-bb3e-4fb8-a189-e3a5e2ccb0dd/peicl-en.pdf, truy cập ngày 30/12/2021.
[19] Bản án số
73-13.482P ngày 22/10/1974 của Phòng dân sự số 1 thuộc Tòa phá án khẳng định:
phải bác bỏ kháng cáo cho rằng các điều khoản không rõ ràng chỉ được giải thích
theo ý chí chung của các bên, đồng thời lên án tòa án xét xử về nội dung khi đã
chấp nhận rằng, trong hợp đồng theo mẫu, trong trường hợp có sự nghi ngờ, hợp đồng
được giải thích theo hướng bất lợi cho bên có nghĩa vụ theo quy định tại Điều
1162 Bộ luật dân sự mà bên này đồng thời là bên soạn thảo và khởi xướng hợp đồng.
[20] Bản án số 09-72.552 và 10-10.843 ngày 01/6/2011 của Phòng dân sự số 2 thuộc
Tòa phá án; Bản án số 10-23.093 ngày 17/11/2011 của Phòng dân sự số 2 thuộc Tòa
phá án; Bản án số 10-26.983 ngày 15/12/2011 của Phòng dân sự số 2 thuộc Tòa phá
án.
[21]
Loại hợp đồng này được gọi là hợp đồng gia nhập (adhesion contract), ở Việt
Nam, nhà làm luật gọi là hợp đồng theo mẫu (standardized form contract). Xem thêm F. Kessler (1943), Contracts of Adhesion--some Thoughts about
Freedom of Contract, Colum.L.Rev., 629
[22] Xem Quyết định
35/2015/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung QĐ 02/2012/QĐ-TTg về việc ban hành danh mục
hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch
chung
[23] Đối
với các loại hình bảo hiểm không bắt buộc, tùy vào loại hình bảo hiểm DNBH dự
kiến kinh doanh, DNBH tự xây dựng nội dung hợp đồng bảo hiểm, quy tắc sản phẩm
bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm,
biểu phí bảo hiểm và phải đạt được sự phê
chuẩn của Bộ Tài chính (bảo
hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe), hoặc phải đăng ký với Bộ
Tài chính (bảo hiểm xe
cơ giới), hoặc không buộc phải đạt được phê chuẩn hay thực
hiện thủ tục đăng ký với Bộ Tài chính (các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ
khác). Xem Điều 39, Điều
40 Nghị định 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo
hiểm.
[24] Xem khái niệm về hợp
đồng theo mẫu tại Điều 405, Bộ luật Dân sự 2015: “Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản
do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu
bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp
đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra. Hợp đồng theo mẫu phải được công khai
để bên được đề nghị biết hoặc phải biết về những nội dung của hợp đồng. Trình
tự, thể thức công khai hợp đồng theo mẫu thực hiện theo quy định của pháp luật”;
và khoản 5 Điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng năm 2010: “Hợp đồng theo
mẫu là hợp đồng do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ soạn thảo để
giao dịch với người tiêu dùng”.
[25] Xem Gillette, Clayton P. (April 8, 2009), Standard Form
Contracts, NYU Law and Economics Research
Paper No.09-18, http://ssrn.com/abstract=1374990, truy cập ngày 30/12/2021.
[26] Xem
Điều 1.7 của PICC quy định về nguyên tắc contra proferentem
[27]
Xem Robert H Jerry, Douglas R Richmond (1996), Understanding Insurance Law,
2nd edition, Carolina Academic Press LLC, tr.136; James M.Fischer (1992), Why are insurance contracts subject to special rules of interpretation?Text versus Context, 24
Ariz. St. L.J. 995 , 1004-05.
[28] Robert H. Jerry II, Douglas S. Richmond (2012), Tlđd, tr.138.
[29] Xem phán quyết St. Paul Fire & Marine Ins. Co. v. Pryseski, 292 Md. 187, 198 (1981).
[30] Xem phán quyết Ohio Cas. Ins. Co. v. Lee, 62 Md.
App. 176, 183 (1985).
[31] Tom Baker, Kyle D. Logue (2017),Tlđd,
tr.64
[32] Robert H. Jerry II, Douglas S. Richmond (2012), Tlđd, tr.138.
[33] Xem them Điều 2046,
Bộ luật dân sư tiểu bang Louisiana, nguyên văn: “When the words of a
contract are clear, no further interpretation may be made to determine the
parties' intent. Ambiguity in an insurance policy must be resolved by
construing the policy as a whole; one policy provision is not to be construed
separately at the expense of disregarding other policy provisions.”
[34] Whitlock, 2011 U.S. Dist. LEXIS 114006, citing Farr, 218 S.E.2d 431. See also State Farm Life Ins. Co. v. Beastin, 907 S.W.2d 430, 433 (Tex. 1995) (“Tòa án phải đặc biệt lưu ý với việc tách biệt một cụm từ, câu hoặc phần riêng biệt của hợp đồng biệt lập khỏi bối cảnh chung hoặc các điều khoản khác”); Forbau v. Aetna Life Ins. Co., 876 S.W.2d 132, 133–34 (Tex. 1994) (“không nên tách biệt một cụm từ, câu hoặc phần [của hợp đồng] khỏi tổng thể của nó và được xem xét tách biệt với các điều khoản khác.”)
[35] Quy định tại Điều
409 BLDS năm 2005 tương ứng với Điều 404 BLDS năm 2015.
[36] Quy định tại
khoản 2 Điều 407 BLDS năm 2005 này tương úng với khoản 2 Điều 405 BLDS năm
2015.
[37] Nguyễn Ngọc Điện (2018), Tlđd,
tr.105.
[38] Theo khoản 1 Điều
407 của BLDS năm 2005.
[39]
Xem thêm Dudi Swartz (2008), Interpretation and disclosure in insurance
contracts, Loyola Consumer Law Review, Volume 21, Issue 2, tr.141.
Nhận xét
Đăng nhận xét