BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH DO DỊCH COVID -19 VÀ CÁC LƯU Ý TỪ THỰC TIỄN PHÁN QUYẾT

 

BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH DO DỊCH COVID 19 VÀ CÁC LƯU Ý TỪ THỰC TIỄN PHÁN QUYẾT 

INSURANCE POLICY IN BUSINESS INTERRUPTION CAUSED BY COVID -19 AND LEGAL ISSUES IN PRACTICAL JUDGEMENTS

(Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý số  04 (152) /2022)

Bạch Thị Nhã Nam

Giảng viên Khoa Luật, Trường đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG Tp.Hồ Chí Minh, NCS ĐH Griffith, Úc

Email: nambtn@uel.edu.vn

Tóm tắt: Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, nhiều quốc gia đã thực thi các chính sách hạn chế đi lại, giãn cách xã hội nhằm đối phó với sự lây lan nhanh chóng và nguy hiểm của vi rút gây dịch bệnh COVID-19.

Tại các doanh nghiệp, các ca nhiễm COVID-19 gia tăng trong người lao động, các doanh nghiệp buộc phải đóng cửa và tạm dừng các hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời tiến hành khử khuẩn các cơ sở của doanh nghiệp. Tình huống này dẫn đến việc gián đoạn kinh doanh của doanh nghiệp, do đó ngày càng nhiều người được bảo hiểm yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc gián đoạn kinh doanh tại nhiều thị trường bảo hiểm trên thế giới. Bài viết giới thiệu loại hình bảo hiểm gián đoạn kinh doanh và bình luận về những vấn đề pháp lý phát sinh đối với các yêu cầu bồi thaường thiệt hại gián đoạn kinh doanh do dịch bệnh COVID-19, từ đó đưa ra các khuyến nghị cho người được bảo hiểm lưu ý khi thực hiện yêu cầu bồi thường đối với tổn thất từ gián đoạn kinh doanh.

Từ khóa: bảo hiểm, gián đoạn, kinh doanh, COVID-19…

Abstract:

In the context of the COVID-19 pandemic, many countries have implemented strict policies of restricting travel, implementing social distancing in response to the rapid spread, and dangerous infection of the corona virus. Due to the fact that COVID-19 infections increased among employees, production and business activities were forced to close and suspend, and at the same time, the facilities were required to disinfect. These situations all lead to business interruptions, so more and more policyholders are making claims for damages covered by business interruption insurance in many insurance markets. The article introduces the type of business interruption insurance and comments on the legal issues arising in business interruption claims due to virus contamination in the pandemic COVID-19, thereby providing recommendations for the insureds in making claims for loss from business interruption.

Keywords: insurance, interruption, business, COVID-19…

 

1.            Tìm hiểu về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh

 

Trong quá trình sản xuất kinh doanh, những tài sản được cá nhân, tổ chức tiến hành hoạt động kinh doanh đưa vào sử dụng nhằm đem lại lợi nhuận có thể bị thiệt hại, điều này sẽ làm ngừng trệ, gián đoạn quá trình kinh doanh, gây thiệt hại, giảm sút về doanh thu hay lợi nhuận cho cá nhân, tổ chức.

Khi tiến hành bảo hiểm đối với tài sản đã đưa vào sản xuất kinh doanh, ngoài việc bảo hiểm vật chất đối với chính tài sản, người được bảo hiểm (NĐBH) có thể tiến hành bảo hiểm cho các thiệt hại gián đoạn kinh doanh trong quá trình tài sản bị hư hỏng, tổn thất phải sửa chữa, khôi phục lại. Vì các rủi ro xảy ra đối với tài sản này mà công việc kinh doanh bị ảnh hưởng hoặc bị gián đoạn từ đó dẫn tới việc giảm sút doanh thu, lợi nhuận của NĐBH. [T4] [H5] 

Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh (GĐKD) là loại hình bảo hiểm đối với các khoản lợi nhuận kinh doanh bị mất sau một sự kiện bảo hiểm nào đó xảy ra đối với tài sản.[1]  Như vậy, trong bảo hiểm GĐKD, đối tượng được bảo hiểm là tài sản, phạm vi bảo hiểm là những mất mát về lợi nhuận do sự giảm sút về doanh thu hoặc gia tăng về chi phí kinh doanh, gây ra do việc gián đoạn hoạt động kinh doanh của NĐBH do các rủi ro được bảo hiểm ở phần thiệt hại tài sản gây ra.

Mục đích của bảo hiểm GĐKD là để bảo vệ người được bảo hiểm khỏi những tổn thất xảy ra khi hoạt động của họ bị gián đoạn bất ngờ do các rủi ro được bảo hiểm,[2] và đưa người được bảo hiểm ở vị thế mà họ đáng ra được hưởng nếu rủi ro được bảo hiểm không xảy ra.[3]

Bảo hiểm GĐKD không được DNBH bán như một sản phẩm bảo hiểm độc lập mà được thêm vào trong các đơn bảo hiểm rủi ro đối với tài sản như bảo hiểm hỏa hoạn, bảo hiểm cháy nổ hoặc được bao gồm trong loại hình bảo hiểm toàn diện mọi rủi ro đối với tài sản dưới dạng tiện ích bổ sung.[4]  Nếu NĐBH không có tham gia bảo hiểm tài sản thì không thể tham gia bảo hiểm GĐKD do ngưng trệ kinh doanh từ việc hư hỏng, tổn thất của tài sản đó. Vì vậy, không có loại hình bảo hiểm GĐKD đứng độc lập mà luôn gắn liền với bảo hiểm tài sản, cụ thể khi NĐBH đã tham gia bảo hiểm cho tài sản sử dụng tại địa điểm được bảo hiểm cho mục đích kinh doanh, NĐBH có thể mở rộng tham gia bảo hiểm GĐKD.

Trong bảo hiểm tài sản, NĐBH sẽ được bồi thường cho những thiệt hại trực tiếp đối với tài sản, còn trong bảo hiểm GĐKD, NĐBH sẽ được bồi thường các thiệt hại gián tiếp hoặc mang tính hậu quả gây ra từ thiệt hại về tài sản. Tổn thất, phá hủy, hay thiệt hại của tài sản được NĐBH sử dụng tại địa điểm được bảo hiểm cho mục đích kinh doanh gây ra bởi các rủi ro được quy định cụ thể trong hợp đồng bảo hiểm tài sản, hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm đối với tài sản đó…Và các tổn thất thiệt hại từ tài sản được bảo hiểm làm ngưng trệ hoặc gián đoạn hoạt động kinh doanh của NĐBH dẫn đến NĐBH thiệt hại do giảm sút lợi nhuận kinh doanh vì phải đóng cửa cơ sở kinh doanh sau sự kiện rủi ro hoặc phải xây dựng lại hoặc sửa chữa tài sản sau tổn thất.

Các rủi ro được bảo hiểm, rủi ro loại trừ, thời hạn bảo hiểm của bảo hiểm GĐKD phải đồng nhất với bảo hiểm tài sản vì bảo hiểm GĐKD được xem là sản phẩm  mở rộng của bảo hiểm tài sản, và thông thường bảo hiểm GĐKD được tham gia có cùng thời hạn bảo hiểm song song với bảo hiểm tài sản. Khi các tổn thất thuộc hợp đồng bảo hiểm tài sản phát sinh trách nhiệm bồi thường của DNBH, thì DNBH cũng có thể sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường từ thỏa thuận bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nếu thiệt hại vật chất của tài sản gây hậu quả kinh doanh ngừng trệ, giảm sút doanh thu hoặc lợi nhuận. Ví dụ: Chủ một cơ sở sản xuất tham gia đồng thời bảo hiểm rủi ro ngập nước, lũ lụt cho cơ sở sản xuất (gồm kho hàng hóa và máy móc thiết bị) và bảo hiểm thiệt hại kinh doanh đối với hoạt động của đơn vị. Khi xảy ra mưa to gây ngập lụt tại địa điểm sản xuất, gây ra hậu quả như sau: toàn bộ kho hàng bị ngập nước mưa và hư hỏng 75%, và máy móc thiết bị hư hỏng đến 50%, phải sửa chữa. Bảo hiểm tài sản chỉ bồi thường tổn thất đối với kho hàng và các máy móc thiết bị bị thiệt hại. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh bồi thường các tổn thất do sự kiện rủi ro ngập nước mưa làm tổn hại kho hàng và và máy móc thiết bị khiến doanh thu và lợi nhuận của đơn vị sản xuất bị giảm sút, các chi phí khắc phục sự cố để đơn vị sản xuất họat động trở lại bình thường như lúc chưa xảy ra tổn thất.

Phạm vi bồi thường của bảo hiểm GĐKD gồm việc bồi thường cho mất mát lợi nhuận kinh doanh và các chi phí cố định (nếu có), các chi phí khác khắc phục sự cố (nếu có) mà NĐBH phải tiếp tục chi trả trong khi hoạt động kinh doanh bị đình trệ, cản trở hoặc bị ảnh hưởng do các thiệt hại vật chất bất ngờ xảy ra đối với những tài sản được bảo hiểm.

Tổn thất thu nhập kinh doanh gồm những mất mát về lợi nhuận do giảm sút về doanh thu hoặc gia tăng về chi phí kinh doanh, là hậu quả của việc gián đoạn hoạt động kinh doanh của NĐBH bởi các rủi ro được bảo hiểm ở phần thiệt hại vật chất đối với tài sản gây ra. [5]

Xem xét ví dụ sau: trường hợp bảo hiểm GĐKD được cung cấp gắn liền với bảo hiểm hỏa hoạn đối với tài sản, khi nào NĐBH sẽ được chi trả quyền lợi bảo hiểm GĐKD?

Thứ nhất, sự kiện bảo hiểm dẫn đến tổn thất về tài sản được bảo hiểm cũng chính là sự kiện bảo hiểm trong bảo hiểm GĐKD gắn liền với tài sản đó. Cụ thể tài sản gặp sự cố hỏa hoạn bị thiệt hại, phải sửa chữa, khắc phục, điều này dẫn đến hoạt động của NĐBH khai thác kinh doanh, thu lợi nhuận từ tài sản cũng bị tổn thất. NĐBH phải có nghĩa vụ kê khai các tổn thất do GĐKD gắn liền với tài sản được bảo hiểm như sụt giảm doanh thu, các chi phí duy trì hoạt động của đơn vị trong thời gian chờ khắc phục sự cố …

Thứ hai, chỉ khi quyền lợi bảo hiểm tài sản được DNBH bồi thường do rủi ro hỏa hoạn xảy ra với tài sản, NĐBH mới có thể kích hoạt yêu cầu bồi thường thiệt hại GĐKD do hỏa hoạn xảy ra đối với tài sản gây ngưng trệ, tổn hại hoạt động kinh doanh. Nếu sự kiện hỏa hoạn xảy ra gây thiệt hại tài sản bị DNBH từ chối bồi thường, NĐBH không thể yêu cầu DNBH bồi thường thiệt hại GĐKD do tài sản bị hỏa hoạn. Đương nhiên, trên thực tiễn có tồn tại khả năng DNBH bồi thường thiệt hại trong bảo hiểm vật chất cho tài sản, nhưng DNBH từ chối bồi thường thiệt hại trong bảo hiểm GĐKD. Nguyên nhân từ chối bồi thường bảo hiểm GĐKD là vì thiệt hại xảy ra đối với tài sản không trực tiếp dẫn đến các thiệt hại GĐKD hoặc thiệt hại trong việc gián đoạn kinh doanh xảy ra do nguyên nhân khác chứ không phải cùng một nguyên nhân xảy ra tổn thất đối với tài sản, ví dụ như sau sự kiện hỏa hoạn xảy ra tại khu phố A, tâm lý khách hàng e ngại không muốn đến khu phố A dẫn đến doanh thu của nhà hàng sau hỏa hoạn sụt giảm. Tóm lại, tiến trình để NĐBH yêu cầu DNBH bồi thường thiệt hại GĐKH, NĐBH trước hết phải yêu cầu DNBH bồi thường thiệt hại vật chất đối với tài sản.

Tại Việt Nam, nhiều DNBH đã cung cấp sản phẩm bảo hiểm GĐKD trên thị trường ví dụ như Công ty bảo hiểm Bảo Minh, bảo hiểm GĐKD được Bảo Minh cung cấp gắn liền với loại hình bảo hiểm mọi rủi ro tài sản hoặc gắn liền với bảo hiểm hỏa hoạn hoặc các rủi ro đặc biệt, [6] Công ty bảo hiểm PJICO cung cấp bảo hiểm GĐKD cho các chủ sở hữu tài sản hoặc chủ thể sử dụng tài sản như: chủ xí nghiệp, chủ nhà máy… với điều kiện đã tham gia bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt hoặc mọi rủi ro tài sản,[7] Công ty TNHH Bảo hiểm Phi nhân thọ MSIG Việt Nam cung cấp bảo hiểm GĐKD gắn liền với bảo hiểm tài sản.[8]

Mặc dù các DNBH có thể có sự linh hoạt thiết kế sản phẩm bảo hiểm khác nhau về phạm vi bảo hiểm GĐKD, các sự kiện bảo hiểm dẫn đến tổn thất được bồi thường, hay các điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, nhưng vẫn đảm bảo các đặc trưng cơ bản của loại hình bảo hiểm GĐKD, nổi bật là sự gắn liền giữa bảo hiểm tài sản và bảo hiểm GĐKD, hoặc nguyên nhân dẫn đến thiệt hại kinh doanh phải là các nguyên nhân gây ra tổn thất vật chất đối với tài sản trong bảo hiểm tài sản. Những tình huống rủi ro điển hình trong bảo hiểm GĐKD là các sự cố lũ lụt, gió bão, hỏa hoạn, sập tòa nhà… tuy nhiên, một số lượng lớn các sản phẩm bảo hiểm GĐKD hiện nay đã mở rộng phạm vi bảo hiểm bao gồm các sự cố không gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản, nhưng gây ra thiệt hại nghiêm trọng trong kinh doanh. Tình huống dịch bệnh COVID-19 được xem là một tình huống thử nghiệm đầu tiên đối với các sản phẩm bảo hiểm GĐKD mang tính chất mở rộng này.

2.            Tranh chấp bảo hiểm gián đoạn kinh doanh do dịch bệnh COVID-19 và các vấn đề pháp lý đáng lưu ý

Tính đến ngày khoảng giữa tháng 7/2021, thế giới đã có 186.638.285 trường hợp được xác nhận nhiễm COVID-19, bao gồm 4.035.037 trường hợp tử vong.[9] Nhiều cơ sở kinh doanh buộc phải đóng cửa, khử khuẩn, và cách ly nhân viên, người lao động nhiễm bệnh, hoặc thực hiện giãn cách xã hội theo lệnh của Chính phủ, điều đó gây nên tình trạng ngưng trệ các hoạt động sản xuất kinh doanh.

Trước tác động của đại dịch tới nền kinh tế, các doanh nghiệp lớn và nhỏ tham gia bảo hiểm GĐKD để bảo hiểm cho khoản doanh thu bị mất và các thiệt hại tài chính khác do GĐKD gây ra, đã yêu cầu DNBH bồi thường cho các tổn thất kinh doanh phát sinh.

Tại Mỹ, hiệp hội bảo hiểm đã cảnh báo rằng các DNBH có thể chi từ 255 tỷ đô la Mỹ đến 431 tỷ đô la Mỹ mỗi tháng để bồi thường cho NĐBH bị mất doanh thu và các khoản chi phí thiệt hại do ngừng hoạt động gây ra bởi đại dịch COVID-19. Theo dự báo, việc bồi thường bảo hiểm nàycó thể dẫn đến tình trạng phá sản cho các công ty bảo hiểm.[10] Từ ngày 15/3/2020 đến ngày 2/7/2021, trên toàn bộ liên bang Hoa Kỳ đã có hơn 100 phán quyết tranh chấp bảo hiểm liên quan đến dịch COVID-19, trong đó bao gồm các loại hình bảo như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh do giảm sút lợi nhuận và tổn thất thu nhập kinh doanh khác, phát sinh các chi phí phụ do COVID-19; bảo hiểm thiệt hại tài sản do COVID-19 gây ra, hoặc bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên thứ ba đối với thương tích cá nhân liên quan đến COVID-19 hoặc thiệt hại tài sản của bên thứ ba mà doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm.[11]

Đối mặt với các yêu cầu bồi thường thiệt hại do gián đoạn kinh doanh, các DNBH từ chối bồi thường vì họ lập luận phạm vi bảo hiểm của bảo hiểm GĐKD không bao gồm các tổn thất do dịch bệnh gây ra như COVID-19.[12] Việc từ chối bồi thường dẫn đến sự gia tăng đáng kể các tranh chấp liên quan đến bảo hiểm GĐKD tại nhiều nền tài phán khác nhau, đặc biệt ở các quốc gia có thị trường bảo hiểm phát triển.[13]

Mới đây nhất, tại Úc, vào ngày 25 /6/2021, Tòa án tối cao của Úc đã từ chối kháng cáo của công ty bảo hiểm trong tranh chấp mang tính thử nghiệm đầu tiên về việc áp dụng điều khoản loại trừ trong hợp đồng bảo hiểm GĐKD, đặc biệt liên quan đến vi rút SARS-CoV-2 gây bệnh COVID-19, và đưa ra phán quyết có lợi cho NĐBH.[14] Các từ ngữ trong chính sách bảo hiểm GĐKD của DNBH đã mở rộng phạm vi bảo hiểm cho sự gián đoạn hoặc do sự can thiệp của nhà chức trách trong một số trường hợp dịch bệnh nhất định xảy ra trong hoặc gần địa điểm của doanh nghiệp được bảo hiểm trong bán kính 20 km, nhưng loại trừ đối với một số bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng, và Tòa án được yêu cầu xác định xem liệu nội dung của điều khoản loại trừ trong hợp đồng bảo hiểm GĐKD có bao gồm tổn thất do dịch bệnh COVID-19 hay không.[15]

Để cung cấp bảo hiểm GĐKD, các DNBH phải cung cấp bảo hiểm tài sản, và mở rộng sản phẩm bảo hiểm GĐKD gắn liền với bảo hiểm tài sản. Trong đại dịch COVID-19, thiệt hại gây ra đối với tài sản phải xuất phát từ việc tài sản bị nhiễm bẩn vi rút gây bệnh COVID-19, do đó phạm vi bảo hiểm tài sản phải bao gồm những thiệt hại gây ra do sự ô nhiễm, nhiễm bẩn đối với tài sản được bảo hiểm. NĐBH phải yêu cầu DNBH bồi thường thiệt hại vật chất đối với tài sản được bảo hiểm do vi rút gây bệnh COVID-19 trước, và sau đó yêu cầu bồi thường thiệt hại GĐKD gắn liền với tài sản được bảo hiểm. Dịch bệnh COVID-19 bùng phát có thể dẫn đến các tình huống gây thiệt hại GĐKD như sau:

Tình huống thứ nhất làm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm GĐKD là phần thu nhập kinh doanh thực tế bị mất do phải tạm ngưng hoạt động, nguyên nhân là do hư hỏng hoặc thiệt hại vật chất trực tiếp đối với tài sản được bảo hiểm.[16] Đây là tình huống phổ biến nhất để kích hoạt bồi thường thiệt hại GĐKD. Ví dụ: một cơn lốc xoáy làm tốc mái nhà hàng của NĐBH, thì nhà hàng sẽ ngừng hoạt động cho đến khi việc sửa chữa hoàn tất, rõ ràng tài sản của NĐBH đã bị hư hỏng một cách hữu hình, và sự kiện này đã kích hoạt bảo hiểm GĐKD. Tuy nhiên, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, sự cố rủi ro là xuất hiện ca nhiễm COVID-19 hoặc nghi ngờ có ca nhiễm COVID-19 tại cơ sở kinh doanh, NĐBH phải tiến hành trước hết là làm sạch sâu, khử khuẩn các tài sản bị nhiễm bẩn vi rút COVID-19, và sau đó là cách ly nhân viên, đóng cửa cơ sở kinh doanh…theo các khuyến nghị và yêu cầu của cơ quan y tế tại địa phương.

Đối với tài sản có vi rút COVID-19 bám trên bề mặt tài sản và phải tiến hành khử khuẩn, liệu tài sản có bị “thiệt hại” vật chất không? Đây là tình huống khó xác định so với tồn tại thiệt hại hữu hình như nhà hàng bị tốc mái. Hoặc liệu thiệt hại GĐKD có phải là hậu quả trực tiếp từ việc tổn thất của tài sản được bảo hiểm không? Liệu một nhà hàng bị giảm sút doanh thu là do người dân ý thức bệnh dịch nguy hiểm, cần phải giãn cách xã hội, từ đó họ ngại đi ra ngoài ăn uống, chứ không phải là hậu quả trực tiếp từ việc các tài sản của nhà hàng bị nhiễm bẩn vi rút gây bệnh COVID-19? Các thuật ngữ “thiệt hại”, “thiệt hại vật chất trực tiếp” nếu không được định nghĩa trong hợp đồng bảo hiểm, điều này dễ dẫn đến tranh chấp đối với các bên trong quan hệ bảo hiểm.

Tình huống thứ hai làm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm GĐKD là do NĐBH phải thực thi mệnh lệnh của cơ quan công quyền như lệnh đóng cửa, lệnh ngừng hoạt động sản xuất, kinh doanh để ngăn chặn hoặc làm chậm sự lây lan của vi rút, việc bắt buộc đóng cửa làm giảm sút thu nhập kinh doanh thực tế của NĐBH. Trong tình huống này, có thể có ca nhiễm COVID-19 hoặc không có ca nhiễm nào trong khu vực buộc phải đóng cửa theo lệnh của nhà chức trách, do đó liệu các lệnh đóng cửa có gây thiệt hại vật chất đối với tài sản được bảo hiểm không, việc chứng minh thiệt hại này càng trở nên khó khăn hơn đối với NĐBH.

Trong hai trường hợp trên, các tranh chấp bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đều liên quan đến việc giải thích khái niệm “thiệt hại”, “thiệt hại vật chất trực tiếp”, và gián đoạn kinh doanh do dịch bệnh COVID-19. Để đánh giá liệu NĐBH có nhận bồi thường thiệt hại GĐKD do dịch bệnh COVID-19 hay không, các bên trong quan hệ bảo hiểm cần phải xem xét cẩn thận các điều khoản và từ ngữ của hợp đồng bảo hiểm mà các bên đã thỏa thuận, bản chất của thiệt hại GĐKD và hoàn cảnh của sự GĐKD. Bài viết tiến hành khảo sát các thực tiễn phán quyết xoay quanh việc giải thích các yếu tố liên quan đến yêu cầu bồi thường thiệt hại của NĐBH trong bảo hiểm GĐKD.

Yếu tố thiệt hại vật chất đối với tài sản được bảo hiểm

Việc chứng minh tồn tại thiệt hại vật chất đối với tài sản được bảo hiểm do vi rút gây bệnh COVID-19 có thể là yếu tố khó khăn lớn nhất đối phía NĐBH để yêu cầu DNBH bồi thường GĐKD. Mục đích của bảo hiểm GĐKD là để bảo vệ một doanh nghiệp khỏi tổn thất tài chính do gián đoạn hoạt động bởi tổn thất hoặc thiệt hại vật chất trực tiếp đối với tài sản được bảo hiểm của họ. Như vậy, NĐBH phải chỉ rõ rằng tồn tại các thiệt hại tài sản được bảo hiểm, và các thiệt hại này kích hoạt khả năng yêu cầu bồi thường thiệt hại GĐKD.

Nếu NĐBH hoặc nhân viên bị nhiễm bệnh COVID-19 tham gia làm việc tại địa điểm được bảo hiểm ví dụ như cửa hàng, nhà hàng, khách sạn…các địa điểm sản xuất kinh doanh này buộc phải đóng cửa để ngăn chặn sự lây lan của vi rút. Vi rút gây bệnh COVID-19 có thể bám trên các bề mặt vật liệu bên trong tòa nhà tại địa điểm được bảo hiểm. Liệu việc tồn tại vi rút trên bề mặt tài sản có gây ra tổn thất hoặc thiệt hại vật chất trực tiếp đối với các tài sản được bảo hiểm không? Loại vi rút SARS-CoV-2 rất dễ lây lan do khả năng truyền qua không khí, khả năng bám trên các bề mặt, và tồn tại vài giờ hoặc vài ngày tùy thuộc vào loại vật liệu bề mặt.[17] Ví dụ, vi rút SARS-CoV-2 được phát hiện trên con tàu du lịch Diamond Princess, vi rút còn bám trên nhiều bề mặt vật dụng khác nhau trong các ca bin có hành khách bị nhiễm bệnh sau khi con tàu đã sơ tán khách du lịch và bỏ trống 17 ngày.[18] Liệu dịch bệnh COVID-19 có thực sự gây thiệt hại đối với các tài sản mà vi rút bám trên bề mặt tài sản? NĐBH có thể lập luận rằng tài sản được bảo hiểm bị nhiễm bẩn vi rút gây bệnh COVID 19 không an toàn cho lực lượng lao động sử dụng, tài sản đã có những biến đổi vật lý trong cấu trúc của tài sản dẫn đến cấu thành thiệt hại vật chất đối với tài sản không?

Thực tiễn phán quyết tại các quốc gia không đưa ra cách tiếp cận nhất quán nào mà tạo ra nhiều giải thích khá đa dạng, hầu hết các phán quyết ủng hộ quan điểm phải tồn tại thiệt hại vật chất đối với tài sản, NĐBH mới có thể đưa ra các yêu cầu bồi thường thiệt hại GĐKD.

Tại Úc, trong phán quyết vụ Ranicar v Frigmobile [1993][19], Tòa án đã xem xét kỹ lưỡng ý nghĩa của việc cấu thành thiệt hại vật chất đối với tài sản. Vụ việc này liên quan đến một lô hàng động vật có vỏ (nghêu, sò, ốc, hến…) được bảo quản ở nhiệt độ cao hơn yêu cầu của quy định xuất khẩu. Trong khi lô hàng động vật có vỏ này vẫn an toàn cho người dùng, nhưng lô hàng này không thể xuất khẩu, từ đó dẫn đến việc giảm sút giá trị. Tòa án nói rằng thiệt hại có nghĩa là "một sự thay đổi vật lý, không nhất thiết là vĩnh viễn hoặc không thể sửa chữa, sự thay đổi vật lý này làm giảm giá trị hoặc tính hữu dụng của vật đó". Việc bảo quản sò ở nhiệt độ cao hơn đã tạo nên "sự thay đổi vật lý đối với sò và sự thay đổi đó có tác động loại bỏ một trong những phẩm chất cơ bản của sò - khả năng xuất khẩu".

Điều gì tạo nên thiệt hại vật chất trong bối cảnh tài sản bị nhiễm bẩnvi rút gây bệnh COVID-19? Nếu vi rút gây bệnh COVID-19 đã xâm nhập và thay đổi đặc tính vật lý tài sản ở cấp độ phân tử và làm giảm tính hữu dụng của tài sản, thì rất có thể điều này sẽ tạo thành thiệt hại tài sản.[20] Nếu vi rút chỉ xen kẽ hoặc bám trên bề mặt của vật dụng, việc nhiễm bẩn chỉ diễn ra trong một số giờ hoặc vài ngày thì điều này khó có thể làm thay đổi đặc tính vật lý của tài sản.

Tại Anh, các thẩm phán cho rằngtài sản được bảo hiểm bị thiệt hại khi có sự thay đổi về mặt vật lý (ở cấp độ phân tử) do ô nhiễm, nếu chất gây ô nhiễm chỉ bám vào tài sản, thì chưa thể xem xét cấu thành thiệt hại tài sản. Trong phán quyết phúc thẩm của vụ án Blue Circle kiện Bộ Quốc phòng vào năm1998[21], nước bị nhiễm chất phóng xạ tràn từ ao vào đất của người được bảo hiểm, tòa án xem xét các đặc tính vật lý của vùng đất nhiễm phóng xạ đã thay đổi có làm cho vùng đất trở nên ít giá trị hơn hoặc kém hữu dụng hơn không? Tòa án kết luận rằng vùng đất được bảo hiểm đã bị thiệt hại do chất phóng xạ xen lẫn trong đất làm cho các đặc tính của đất trở nên khác biệt, và chất phóng xạ không thể được tách ra khỏi đất đai bằng bất kỳ quy trình thực tế nào khiến đất đai trở nên kém giá trị hơn. Tóm lại, tòa án Anh có cùng cách tiếp cận về thiệt hại vật chất với tòa án Úc khi cho rằng thiệt hại tài sản xuất hiện khi thiệt hại đó là sự thay đổi vật lý làm tài sản ít hữu dụng hoặc có ít giá trị hơn ban đầu.

Nếu vi rút gây bệnh COVID-19 chỉ bám trên bề mặt vật chất, thì điều này chưa đủ để cấu thành thiệt hại vật chất. Khuyến cáo y tế của các chính phủ đều cho rằng việc vệ sinh đúng cách bằng các chất khử trùng tiêu chuẩn sẽ tiêu diệt được vi rút, trong mọi trường hợp, không có dấu hiệu hoặc bằng chứng nào cho thấy vi rút ăn mòn các bề mặt vật lý. Trong phán quyết Merlin v BNFL [1990][22], tòa án Anh cho rằng bụi phóng xạ đọng lại trên và trong ngôi nhà không cấu thành thiệt hại vật chất vì lượng bụi phóng xạ không làm biến đổi vật lý đối với cấu trúc ngôi nhà, mặc dù ngôi nhà có phần giảm sút giá trị hơn.

Đối với vi rút gây bệnh COVID-19, bề mặt vật dụng bị bám vi rút có thể được khử khuẩn, làm sạch nhanh chóng và rẻ tiền, đồng thời vi rút này sẽ tự tiêu hủy và chết trong bất kỳ trường hợp nào sau vài giờ hoặc có thể vài ngày phụ thuộc vào bề mặt vật liệu. Do đó, rất khó để cho rằng sự tồn tại tạm thời của virút gây bệnh COVID-19 trong hoặc trên bề mặt tài sản sẽ ảnh hưởng đến giá trị của tài sản, hay cấu tạo vật lý của tài sản.

Tại Hoa Kỳ, đối với vấn đề “thiệt hại vật chất” trong bảo hiểm tài sản, các tòa án cũng đặt ra các tiêu chuẩn nhất định như tổn thất vật chất này là trực tiếp, thực tế phá hủy tài sản, ảnh hưởng đến toàn vẹn cấu trúc hoặc chức năng của tài sản, hoặc theo cách hiểu mở rộng, một sự ô nhiễm thực tế có khả năng lan rộng đến mức khiến tài sản không thể sử dụng được.[23] Như trong phán quyết vào năm 2018,[24] tòa án quận liên bang nhận thấy không có "tổn thất vật chất trực tiếp" đối với nhà hàng sau khi thực hiện vệ sinh toàn diện khử bụi, dẹp các mảnh vỡ và xử lý hóa chất độc hại khỏi sàn nhà, tường, bàn, ghế trong nhà hàng do ảnh hưởng từ một công trình xây dựng gần đó. Tòa án giải thích tổn thất vật chất trực tiếp là một sự thay đổi thực tế đối với tài sản được bảo hiểm dẫn đến tài sản không đạt yêu cầu để sử dụng trong tương lai,việc  dọn dẹp, sửa chữa tài sảnsau sự cố chưa đủ để thiết lập là tổn thất vật chất trực tiếp đối với tài sản. Yêu cầu tổn thất “vật chất” nhằm loại trừ các tổn thất vô hình hoặc tổn thất chỉ gây ra một tác động kinh tế bất lợi cho NĐBH mà không đi kèm theo một sự thay đổi vật lý riêng biệt đối với tài sản.

Vào tháng 3 và tháng 4 năm2020, những tranh chấp liên quan đến yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản do lệnh đóng cửa của chính quyền địa phương trong đại dịch COVID-19 bắt đầu xuất hiện tại Hoa Kỳ. Trong phán quyết gần đây nhất của Tòa án quận Hoa Kỳ ở Boston trong vụ án Legal Sea Foods, LLC v. Strathmore Insurance Co. vào tháng 7/2021, tòa án đã cho rằng DNBH không có trách nhiệm bồi thường tổn thất GĐKD do COVID-19, vì sự hiện diện của vi rút gây bệnh COVID-19 không trực tiếp gây ra thiệt hại và không ảnh hưởng đến tính toàn vẹn cấu trúc của tài sản được bảo hiểm, do đó NĐBH không thể yêu cầu bồi thường thiệt hại vật chất trực tiếp đối với tài sản, và bác bỏ luôn yêu cầu bồi thường thiệt hại GĐKD.[25] Ngoài ra, trong các phán quyết khác có liên quan, tòa án còn lập luận thêm rằng, NĐBH có thể dễ dàng khắc phục sự cố bề mặt tài sản có vi rút gây bệnh COVID-19 bằng việc siêng năng khử khuẩn, làm sạch bề mặt mà không cần tiến hành bất cứ việc sửa chữa hỏng hóc nào đối với tài sản, nên không có bất cứ thiệt hại vật chất nào đối với tài sản được bảo hiểm do sự hiện diện của vi rút gây bệnh COVID-19.[26]

Bên cạnh đó, các nguyên đơn khởi kiện còn dựa vào lập luận do lệnh đóng cửa của chính quyền để giảm thiểu sự lây lan dịch bệnh COVID 19 để yêu cầu bồi thường thiệt hại GĐKD. Thay vì chứng minh sự hiện diện vi rút trên bề mặt tài sản gây thiệt hại trực tiếp đối với tài sản, họ lập luận rằng lệnh đóng cửa do dịch bệnh COVID-19 đã dẫn đến các thiệt hại trực tiếp đối với tài sản được bảo hiểm.  Nguyên đơn lập luận rằng các lệnh đóng cửa đã gây ra tổn thất và thiệt hại vật chất đối với tài sản được bảo hiểm vì lệnh đóng cửa khiến các tài sản mất tính năng “được sử dụng” mặc dù chưa biến đổi về mặt vật lý.[27] Hàng loạt các câu hỏi sau đây được đặt ra để xem xét: Máy tính tiền không được sử dụng có bị hư hỏng không? Một tách cà phê bị đổ đang chờ được lau có thực sự gây thiệt hại vật chất cho cơ sở kinh doanh trong thời gian buộc phải đóng cửa? Liệu NĐBH có thể lập luận rằng sự hiện diện của vi rút gây bệnh COVID-19 gây ra tổn thất vật chất trực tiếp và / hoặc thiệt hại đối với các cơ sở được bảo hiểm trong phạm vi bảo hiểm GĐKD vì lệnh đóng cửa của chính quyền khiến NĐBH không thể tiếp cận tài sản, và ngăn cản NĐBH chiếm giữ tài sản trên thực tế, do đó chức năng của tài sản gần như bị loại bỏ, khiến hoạt động kinh doanh bị ngưng trệ.[28]

Cũng trong vụ án Legal Sea Foods, LLC v. Strathmore Insurance Co. tuyên vào tháng 7/2021, [29] phán quyết nêu rõ trong trường hợp NĐBH thực hiện lệnh của nhà chức trách đóng cửa cơ sở kinh doanh, thiệt hại vật chất đối với tài sản chỉ tồn tại khi lệnh của nhà chức trách khiến NĐBH bị cấm mọi khả năng tiếp cận tài sản, nếu lệnh của nhà chức trách chỉ đơn thuần là hạn chế quyền tiếp cận tài sản của NĐBH, thì không có thiệt hại vật chất đối với tài sản. Mặc dù NĐBH lập luận rằng họ không thể đến một số nhà hàng được bảo hiểm tại một số khu vực, nhưng không thể chứng minh được các lệnh đóng cửa của nhà chức trách hoàn toàn đã cấm họ tiếp cận tài sản được bảo hiểm, trên thực tế NĐBH vẫn có thể thực hiện hoạt động bán hàng mang đi.

Như vậy, khác biệt đôi chút với khả năng rất thấp để chứng minh thiệt hại tài sản khi có vi rút bám trên bề mặt tài sản, trong trường hợp NĐBH phải thực hiện lệnh đóng cửa của nhà chức trách, khả năng chứng minh của NĐBH sẽ có thể thiết lập nên các thiệt hại đối với tài sản. Mỗi tình huống tranh chấp sẽ phụ thuộc vào cách diễn đạt chi tiết của điều khoản và cách NĐBH phản ứng với các yêu cầu khuyến nghị hay bắt buộc của Chính phủ trong đại dịch.

Nhìn chung, xét từ thực tiễn phán quyết ở các khu vực tài phán, NĐBH rất khó chứng minh có tồn tại thiệt hại vật chất đối với tài sản được bảo hiểm trong trường hợp có sự hiện diện của vi rút gây bệnh COVID-19 trên bề mặt tài sản, hoặc tài sản bị thiệt hại do lệnh đóng cửa của nhà chức trách để giảm sự lây lan của COVID-19. Từ đó, NĐBH không thể yêu cầu DNBH bồi thường thiệt hại GĐKD. Tuy nhiên, vẫn còn các tranh chấp khác liên quan đến COVID-19 đang chờ cơ quan tài phán phân xử, các phán quyết trong tương lai ở các vụ kiện này sẽ tạo nên những tác động pháp lý nhất định đến việc xác định  các lệnh đóng cửa, tạm ngừng hoạt động do dịch bệnh COVID-19 có thiết lập nên tổn thất hoặc thiệt hại vật chất trực tiếp đối với tài sản hay không.

Mối liên hệ giữa thiệt hại vật chất và việc gián đoạn kinh doanh và tổn thất kinh doanh

Để kích hoạt yêu cầu bồi thường bảo hiểm GĐKD, ngoài việc chứng minh tồn tại thiệt hại vật chất đối với tài sản, NĐBH phải chứng minh việc gián đoạn kinh doanh dẫn đến tổn thất kinh doanh do thiệt hại tài sản gây ra, chứ không phải do các yếu tố khác như suy thoái kinh tế nói chung, hay do các khuyến nghị tránh tiếp xúc xã hội, mọi người hạn chế ra đường, tránh tiếp xúc đông người, tránh những nơi đông đúc.

Một ví dụ là yêu cầu bồi thường thiệt hại do mất thu nhập của một nhà hàng sau khi nhà hàng đóng cửa trong hai tuần vì một cơn bão đã phá hủy hầu hết các cơ sở của nhà hàng. Cơn bão đã phá hủy các vật dụng của nhà hàng, gây ra thiệt hại vật chất trực tiếp đối với tài sản được bảo hiểm, và mức độ nghiêm trọng của thiệt hại vật chất trực tiếp đó buộc nhà hàng phải đóng cửa. Tuy nhiên, tình huống trên khác đáng kể so với trường hợp vi rút lây lan và làm bùng phát đại dịch khiến nhà hàng phải đóng cửa (hoặc giảm hoạt động) và không có thiệt hại vật chất trực tiếp nào về tài sản.

Tại Anh, tòa án chú trọng phân biệt giữa tổn thất kinh doanh phát sinh từ thiệt hại đối với tài sản được bảo hiểm và tổn thất kinh doanh phát sinh do nguyên nhân khác. Ví dụ trong vụ án Orient-Express Hotels Limited v Assicurazioni Generali Spa (Anh) [2010][30], tòa án Anh nhận thấy rằng lợi nhuận của khách sạn ở New Orleans sau trận bão Katrina và Rita giảm sút do tác động của bão gây ra cho cả khu vực địa lý rộng lớn, khiến lượng du khách đến khu vực sụt giảm, tổn thất kinh doanh của khách sạn không phải do thiệt hại đối với tài sản được bảo hiểm, và những thiệt hại vật chất đối với khách sạn chưa ở mức độ tổn thất nghiêm trọng buộc khách sạn phải đóng cửa.

Tại Hoa Kỳ, với cùng lập luận rằng việc tồn tại ô nhiễm đơn thuần đối với tài sản được bảo hiểm không đủ để yêu cầu bồi thường thiệt hại GĐKD. Cụ thể, doanh nghiệp nhập khẩu thịt bò bị mất thu nhập do lệnh cấm vận của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ vì nguy cơ thịt bò nhiễm “bệnh bò điên”, nguy cơ nhiễm bệnh bò điên là có thật nhưng đây không phải là “tổn thất vật chất trực tiếp” đối với thịt bò của doanh nghiệp.[31] Tòa án đã phân biệt giữa nguy cơ thịt bò nhiễm “bệnh bò điên” và việc doanh nghiệp không thể nhập khẩu thịt bò vào Hoa Kỳ do lệnh cấm vận, khiến thịt bò ở trên xe tải nhập khẩu trở nên hư thối. Việc doanh nghiệp không thể vận chuyển sản phẩm thịt bò của mình qua biên giới và bán sản phẩm thịt bò ở Hoa Kỳ không đủ cơ sở để thiết lập các tổn thất vật chất trực tiếp đối với đối tượng được bảo hiểm –thịt bò, và do đó doanh nghiệp không thể yêu cầu bồi thường thiệt hại GĐKD.

Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, doanh thu tại các địa điểm kinh doanh có ca nhiễm COVID 19 có thể sụt giảm, nhưng nguyên nhân sụt giảmdoanh thu là do tác động từ những khuyến nghị hạn chế đi lại, lệnh giãn cách xã hội. Chỉ trong trường hợp việc sụt giảm doanh thu gây ra bởi các nguyên nhân làm thiệt hại tài sản, và doanh nghiệp cần thời gian đóng cửa kinh doanh để sữa chữa khắc phục sau sự cố tổn thất tài sản, khi đó mới tồn tại mối liên hệ giữa thiệt hại vật chất của tài sảnthiệt hại gián đoạn kinh doanh do cùng nguyên nhân gây ra, NĐBH mới có thể yêu cầu bồi thường tổn thất GĐKD.

 

 

Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm đối với các tổn thất do ô nhiễm, nhiễm khuẩn

Khi tham gia bảo hiểm GĐKD, NĐBH phải kiểm tra phạm vi bảo hiểm và điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm. Một số sản phẩm bảo hiểm GĐKD đã loại trừ rủi ro ô nhiễm, nhiễm khuẩn khỏi trách nhiệm bảo hiểm của DNH. Do đó, với các thiệt hại tài sản hay thiệt hại GĐKD trong trường hợp liên quan đến vi rút gây bệnh COVID-19 sẽ không được bồi thường.

Ví dụ như trong bảo hiểm GĐKD gắn liền với bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt của tài sản, tại Quy tắc bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt (phần GĐKD),[32] Công ty bảo hiểm VIETINBANK quy định: “Quy tắc bảo hiểm này không bảo hiểm cho thiệt hại gây ra bởi ô nhiễm hay nhiễm bẩn ngoại trừ những thiệt hại của tài sản được bảo hiểm gây ra bởi:

i)                Ô nhiễm hay nhiễm bẩn từ các rủi ro được bảo hiểm

ii)              Bất kỳ rủi ro được bảo hiểm nào phát sinh từ ô nhiễm hay nhiễm bẩn”

Khi đọc điều khoản này, NĐBH phải xem xét phạm vi rủi ro được bảo hiểm, và các rủi ro bị loại trừ trách nhiệm bảo hiểm thể hiện trong Quy tắc, từ đó mới có thể nắm hết được ý nghĩa của điều khoản loại trừ. Trong phạm vi rủi ro được bảo hiểm không liệt kê các trường hợp thiệt hại tài sản do nhiễm khuẩn, ô nhiễm, hay bệnh dịch, do đó COVID-19 không phải là rủi ro được bảo hiểm. Tiếp đến, tại phần loại trừ trách nhiệm, việc ô nhiễm hay nhiễm khuẩn (bao gồm cả vi rút gây bệnh COVID-19) lại là rủi ro bị loại trừ đối với bảo hiểm tài sản và bảo hiểm GĐKD từ thiệt hại tài sản, do đó Quy tắc sản phẩm bảo hiểm này sẽ không bảo hiểm cho các thiệt hại gây ra bởi vi rút gây bệnh COVID-19. Trong tình huống khác, ví dụ như trường hợp việc ô nhiễm phát sinh từ các rủi ro được bảo hiểm như do nước mưa ngập, giông bão mà dẫn đến ô nhiễm hay nhiễm bẩn thì khi đó việc nhiễm bẩn gây tổn thất mới được xem xét bồi thường thiệt hại.

Tóm lại, việc phân tích những vấn đề pháp lý nổi bật qua thực tiễn phán quyết ở các khu vực tài phán khác nhau cho thấy phần lớn các yêu cầu bồi thường bảo hiểm GĐKD phải đối mặt với rào cản lớn nhất là chứng minh có tồn tại thiệt hại vật chất do COVID-19. Trong hầu hết các trường hợp tại các quốc gia, đây sẽ là một trở ngại mà NĐBH sẽ rất khó chứng minh. Vi rút gây bệnh COVID-19 chỉ có thể chỉ tồn tại trên bề mặt tối đa là vài giờ, hoặc vài ngày nên khó có cơ sở để dẫn đến biến đổi cấu trúc vật lý của tài sản, ảnh hưởng đến công năng, việc sử dụng tài sản. Đồng thời, sự gián đoạn kinh doanh phải do thiệt hại vật chất gây ra trong một khoảng thời gian nhất định, điều này cũng sẽ gây khó cho phía NĐBH để chứng minh tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại tài sản và thiệt hại kinh doanh bị gián đoạn. Trong bối cảnh hiện tại, khi nhiều quốc gia vẫn còn phải căng thẳng đối phó với đại dịch COVID-19, khó để có thể dự báo việc gián đoạn kinh doanh sẽ diễn tiến như thế nào, và được khôi phục lại so với tình huống chưa có dịch bùng phát ra sao. Tuy nhiên, một điều rất rõ ràng là các phán quyết ở các nền tài phán có cách tiếp cận rất đa dạng và thận trọng trong việc giải thích từ ngữ liên quan đến tranh chấp bảo hiểm do GĐKD. Do đó các yêu cầu bồi thường về gián đoạn kinh doanh hiếm khi đơn giản và thường đòi hòi NĐBH phải đọc kỹ lưỡng các điều khoản phạm vi rủi ro được bảo hiểm, các rủi ro loại trừ trong hợp đồng bảo hiểm GĐKD trước khi giao kết, và tiến hành phân tích cẩn thận về các từ ngữ trong hợp đồng bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm, hay Quy tắc sản phẩm bảo hiểm của DNBH và các hoàn cảnh thực tế xung quanh tổn thất của NĐBH.

Tại Việt Nam, trước bối cảnh COVID-19, nhiều doanh nghiệp lớn và nhỏ đã tham gia bảo hiểm GĐKD gắn liền với bảo hiểm rủi ro tài sản, việc kích hoạt các yêu cầu bồi thường đối với tổn thất GĐKD tại thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng sẽ đối mặt với các vấn đề pháp lý tương tự. Bài viết hướng NĐBH lưu tâm đến việc nghiên cứu và đọc kỹ các điều khoản trong thỏa thuận, hoặc các điều khoản có sẵn trong Quy tắc sản phẩm bảo hiểm được xây dựng bởi DNBH để ngăn ngừa rủi ro bị từ chối bồi thường hoặc các tiêu chuẩn về chứng minh thiệt hại mà NĐBH cần phải đáp ứng để yêu cầu DNBH bồi thường khi có thiệt hại hay tổn thất xảy ra do COVID-19.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.    Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam ban hành năm 2000, sửa đổi bổ sung 2010 và 2019.

2.    Nghị định 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.

3.    Gregory D. Miller, Joseph D. Jean, “Effect of Post-Loss Economic Factors in Measuring Business Interruption Losses: An Insured’s and Insurer’s Perspectives”, in New appleman on Insurance: Current critical isues in insurance law 25, 25 (2010), NXB.LexisNexis. (Ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế sau tổn thất trong việc đo lường tổn thất do gián đoạn kinh doanh: Quan điểm của Người được bảo hiểm và quan điểm của công ty bảo hiểm)

4.    Jon C. Rice, Business Interruption Coverage in the Wake of Katrina: Measuring the Insured’s Loss in a Volatile Economy, 41 Tort Trial & Ins. Prac. L.J. 857, 857 (2006) (Phạm vi bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau tác động cơn bão Katrina: Đo lường tổn thất của người được bảo hiểm trong nền kinh tế biến động)

5.    Jeff Katofsky, “Subsiding Away: Can California Homeowners Recover from Their Insurer for Subsidence Damages to Their Homes?”, 20 PAC. L J. 783, 785 (1989) (Trượt lún: Người được bảo hiểm đối với đơn bảo hiểm của chủ nhà ở California có thể yêu cầu công ty bảo hiểm bồi thường cho các thiệt hại do sụt lún đối với nhà của họ không?)

6.    Larry P. Schiffer, Does the Novel Coronavirus Cause Direct Physical Loss of or Damage to Property? 23/04/2020, National Law Review, Volume X, Number 114.

7.    Từ điển Investopedia, https://www.investopedia.com/.

 



[1] Theo từ điển Investopedia, https://www.investopedia.com/terms/b/business-interruption-insurance.asp, truy cập ngày 12/07/2021. Investopedia là một trang web tài chính có trụ sở chính tại thành phố New York, được thành lập vào năm 1999, cung cấp các thông tin, lời khuyên, đánh giá, xếp hạng và so sánh trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm…

[2] Gregory D. Miller, Joseph D. Jean, “Effect of Post-Loss Economic Factors in Measuring Business Interruption Losses: An Insured’s and Insurer’s Perspectives”, in New appleman on Insurance: Current critical isues in insurance law 25, 25 (2010), NXB.LexisNexis. (Ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế sau tổn thất trong việc đo lường tổn thất do gián đoạn kinh doanh: Quan điểm của Người được bảo hiểm và quan điểm của công ty bảo hiểm)

[3] Jon C. Rice, Business Interruption Coverage in the Wake of Katrina: Measuring the Insured’s Loss in a Volatile Economy, 41 Tort Trial & Ins. Prac. L.J. 857, 857 (2006) (Phạm vi bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau tác động cơn bão Katrina: Đo lường tổn thất của người được bảo hiểm trong nền kinh tế biến động)

[4] Jeff Katofsky, “Subsiding Away: Can California Homeowners Recover from Their Insurer for Subsidence Damages to Their Homes?”, 20 PAC. L J. 783, 785 (1989) (Trượt lún: Người được bảo hiểm đối với đơn bảo hiểm của chủ nhà ở California có thể yêu cầu công ty bảo hiểm bồi thường cho các thiệt hại do sụt lún đối với nhà của họ không?)

[5] Theo từ điển Investopedia, tlđd. Các tổn thất thường bao gồm: Lợi nhuận dự kiến có được, chi phí cố định, chi phí di chuyển sang địa điểm tạm thời, chi phí đào tạo lại nhân viên về cách sử dụng máy móc mới, thiệt hại về tài chính do lệnh của cơ quan công quyền, chi phí tiền lương của nhân viên, nợ thuế, hoặc khoản thanh toán khoản vay đến hạn

[6] Xem chi tiết các Quy tắc bảo hiểm gián đoạn kinh doanh của Bảo Minh công bố tại trang web chính thức của Bảo Minh: https://www.baominh.com.vn/bao-hiem-gian-doan-kinh-doanh, truy cập ngày 12/07/2021.

[7] Xem chi tiết về sản phẩm bảo hiểm công bố tại trang web chính thức của PJJICO, https://www.pjico.comvn/san-pham/bao-hiem-gian-doan-kinh-doanh-moi-rui-ro, truy cập ngày 12/07/2021.

[8] Xem chi tiết về sản phẩm bảo hiểm công bố tại trang web chính thức của MSIG, https://www.msig.com.vn/vi/bao-hiem-doanh-nghiep/bao-hiem-gian-doan-kinh-doanh, truy cập ngày 12/07/2021.

[9] Số liệu công bố tại trang web chính thức của tổ chức y tế thế giới WHO, https://covid19.who.int/, truy cập ngày 12/07/2021.

[10] Suzanne Barlyn, Công ty bảo hiểm Hoa Kỳ muốn người nộp thuế hỗ trợ bảo hiểm đại dịch

dành cho Doanh nghiệp, REUTERS, 29/4/2020, https://www.reuters.com/article/ushealth-coronavirus-insurance-pandemic/us-insurer-want-taxpayers-to-backpandemic-coverage-for-businesses-idUSKCN22B1J8, truy cập ngày 12/07/2021.

[11] Practical Law Commercial Transactions, Key COVID-19 Insurance Coverage Cases Tracker (US), 1/07/2021,

https://content.next.westlaw.com/Document/If80a0d3879ae11ea80afece799150095/View/FullText.html?contextData=(sc.Default)&transitionType=Default&firstPage=true, truy cập ngày 13/08/2021.

[12] Evan G. Greenberg, What Won’t Cure Corona: Lawsuits, Wall Street Journal, 21/04/2020,
https://www.wsj.com/articles/what-wont-cure-corona-lawsuits-11587504920, truy cập ngày 12/07/2021.

[13] Tính đến cuối năm 2020, tại Mỹ đã có đến 1000 vụ kiện, bao gồm hàng chục vụ kiện tập thể, trên khắp đất nước liên quan đến tranh chấp bảo hiểm GĐKD do COVID-19 theo Christopher C., Forum Shopping COVID-19 Business Interruption Insurance Claims,17/09/2020, 2020 U. Ill. L. Rev. Online 187 (2020), Penn State Law Research Paper No. 16-2020. Tại Úc, tính đến tháng 1/2021, có ít nhất năm công ty luật đang nghiên cứu tiến hành các vụ kiện tập thể chống lại DNBH về việc từ chối bồi thường hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh trong thời gian đại dịch theo  Emilia Terzon, https://www.abc.net.au/news/2021-01-28/insurance-industry-facing-class-actions-covid-claims/13091872, truy cập ngày 12/07/2021.

[14] HDI Global Specialty SE v Wonkana No. 3 Pty Ltd trading as Austin Tourist Park [2020] NSWCA 296.

[15] Kemsley Brennan, James Stanton, Kathryn Rigney, Business Interruption Insurance for COVID-19: First Australian Test Case, 25/06/2021, https://www.minterellison.com/articles/business-interruption-insurance-for-covid-19, truy cập ngày 13/8/2021.

[16] Diễn đạt nguyên gốc từ tiếng Anh: “…the necessary suspension . . . caused by direct physical loss of or damage to covered property . . .”

[17] New Coronavirus Stable for Hours on Surfaces: SARS-CoV-2 Stability Similar to Original SARS Virus, U.S. DEP’T OF HEALTH & HUMAN SERVS., NAT’L INST. OF HEALTH  (Vi rút corona mới ổn định trong nhiều giờ trên bề mặt: Tính ổn định của SARS-CoV-2 Tương tự như Virus SARS ban đầu), 17/3/2020, https://www.nih.gov/news-events/news-releases/newcoronavirus-stable-hours-surfaces, truy cập ngày 12/08/2021.

[18] Leah F. Moriarty, et al., Báo cáo hàng tuần về bệnh tật và tử vong (MMWR), CDC, 27/3/2020,

https://www.cdc.gov/mmwr/volumes/69/wr/mm6912e3.htm?s_cid=mm6912e3_w, truy cập ngày 12/08/2021.

[19] Phán quyết vụ án Ranicar v Frigmobile Pty Limited [1983] Tas R 112. Tra cứu thông tin về phán quyết tại https://www.queenslandjudgments.com.au/, truy cập ngày 12/08/2021.

 [20] Xem phán quyết vụ [2005] EWCA Civ 928.Toàn bộ phán quyết có thể xem tại http://www.bailii.org/ew/cases/EWCA/Civ/2005/928.html, truy cập ngày 12/07/2021.

[21] [1998] EWCA Civ 945, toàn bộ phán quyết có thể xem tại https://www.bailii.org/ew/cases/EWCA/Civ/1998/945.html, , truy cập ngày 12/08/2021.

[23] Larry P. Schiffer, Does the Novel Coronavirus Cause Direct Physical Loss of or Damage to Property? 23/04/2020, National Law Review, Volume X, Number 114.

[24] Phán quyết vụ kiện Mama Jo’s, Inc. v. Sparta Insurance Co., 17-cv-23362-KMM, 2018 U.S. Dist. LEXIS 201852 (SD Fla. 11/6/ 2018)

[25] Judy Greenwald, Insurers win restaurants’ COVID-19 cases, 09/03/2021, https://www.businessinsurance.com/article/20210309/NEWS06/912340337/Insurers-win-restaurants%E2%80%99-COVID-19-coronavirus-pandemic-cases-business-interrupt, truy cập ngày 12/08/2021.

[26] Judy Greenwald, tlđd.

[27] Đơn khởi kiện của Nguyên đơn trong vụ kiện Truhaven Enterprises, Inc. v. Chubb Ltd., No. 2:20-cv-04586 (Tòa án quận liên bang New Jersey, Mỹ) đệ trình vào 20/04/2020.

[28] Đơn khởi kiện của Nguyên đơn trong vụ kiện Café Int’l Holding Co., LLC v. Chubb Limited, No. 1:20-cv-21641 (Toàn án quận liên bang phía Nam Florida) đệ trình vào 20/04/2020.

[29] Judy Greenwald, tlđd.

[30] [2010] EWHC 1186 (Comm), toàn bộ phán quyết có thể xem tại https://www.bailii.org/ew/cases/EWHC/Comm/2010/1186.html, truy cập ngày 12/07/2021.

[31] Food Tech., Inc. v. United States Fid. & Guar. Co., 465 F.3d 834 (8th Cir. 2006) (Áp dụng luật tiểu bang Minnesota).

[32] Quy tắc bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt (phần GĐKD) được VIETINBANK ban hành ngày 28/12/2017, được công bố công khai tại trang web chính thức của DNBH: https://vbi.vietinbank.vn/files/shares/Quy_tac_bao_hiem_hoa_hoan_va_rui_ro_dac_biet_%20gian_doan_kinh_doanh.pdf, truy cập ngày 14/07/2021.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 22/2018/AL VỀ NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG TIN CỦA BÊN MUA BẢO HIỂM

Trách nhiệm cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm giai đoạn tiền hợp đồng

NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG TIN TIỀN HỢP ĐỒNG DƯỚI GÓC NHÌN KINH TẾ HỌC PHÁP LUẬT