TỪ BỎ THẾ QUYỀN CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM ĐỐI VỚI NHÀ THẦU PHỤ TRONG HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG

 

TỪ BỎ THẾ QUYỀN CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM ĐỐI VỚI

NHÀ THẦU PHỤ TRONG HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG

 

Bạch Thị Nhã Nam

E-mail: nambtn@uel.edu.vn

                         Thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế - Luật

 Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

 

Tóm tắt: Lĩnh vực xây dựng chứa đựng nhiều rủi ro liên quan đến vật liệu xây dựng, phương tiện, thiết bị kĩ thuật, tai nạn người lao động và bên thứ ba… Pháp luật đã đặt ra yêu cầu chủ đầu tư dự án và nhà thầu thi công, nhà thầu tư vấn thiết kế bắt buộc phải tham gia bảo hiểm trong hoạt động xây dựng. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã thực hiện từ bỏ thế quyền đối với nhà thầu hay các bên liên quan khác đến dự án xây dựng. Bài viết tìm hiểu về chế định thế quyền và từ bỏ thế quyền trong hoạt động bảo hiểm nói chung và bảo hiểm công trình xây dựng nói riên. Đồng thời, bài viếtphân tích một phán quyết của Toà án Vương quốc Anh về việc không áp dụng từ bỏ thế quyền đối với nhà thầu phụ công trình xây dựng, từ đó tác giả đưa ra các lưu ý đối với các bên tham gia dự án xây dựng trong việc bảo hiểm cho phần công việc nhận thầu.

Từ khoá: Thế quyền; kinh doanh bảo hiểm; dự án xâydựng

Nhận bài: 02/6/2020           Hoàn thành biên tập:   /   /2021             Duyệt đăng:  /  /2021

Từ bỏ thế quyền của doanh nghiệp bảo hiểm đối với nhà thầu phụ trong hợp đồng bảo hiểm công trình xây dựng
Abstract: Construction projects currently contains a lot of risks related to construction materials, vehicles, technical equipment, labor accidents and third parties... The law has set requirements for project investors, and construction contractors, design consultants… to procure compulsory insurance in some required cases. However, in practice, the insurer waives the right of subrogation to the contractors or other parties involved in the construction project. The paper explores subrogation and waiver of subrogation in general and in construction project insurance in particular. The paper also analyzes a recent judgment of the British Court on waiver of subrogation to subcontractor in the construction project, and given on such analysis, the paper proposes some suggestions for the parties in the construction project in insuring the procured work.

Keywords: Subrogation; insurance business; construcstion project

 


1. Chế định thế quyền và từ bỏ thế quyền trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm

Thế quyền là học thuyết pháp lí có nguồn gốc từ hệ thống dân luật.([1]) Theo phân tích ngữ nghĩa của thuật ngữ thế quyền (Subrogage) trong tiếng Latin, tiền tố “sub” có nghĩa là “under” - dưới và “rogage” có nghĩa là “to ask” - yêu cầu.([2]) Từ đồng nghĩa phổ biến với thuật ngữ “subrogation” là “substitution” - nghĩa là sự thay thế hoặc là sự chuyển nhượng được pháp luật thừa nhận, ([3]) mục đích áp dụng thế quyền nhằm đảm bảo sự công bằng cho các bên trong giao dịch. Thế quyền là một hành vi theo luật hoặc được pháp luật mặc nhiên thừa nhận, trao quyền cho một người, để có quyền yêu cầu đối với bên thứ ba tương xứng với phần nghĩa vụ màngười ấy đã hoàn thành hoặc sẵn sàng hoàn thành yêu cầu của người có quyền gốc đối với bên thứ ba..([4]) Khác với chuyển giao quyền yêu cầu được quy định tại Điều 365, Bộ luật Dân sự 2015, người thế quyền chỉ thay thế người có quyền trong chừng mực phần giá trị của nghĩa vụ mà người này đã thực hiện, phần nghĩa vụ còn lại vẫn được bảo lưu cho người có quyền gốc. Ví dụ: A nợ B 100 đồng, C thay A trả trước cho B 50 đồng với điều kiện B đồng ý để C thay thế B đòi nợ A trả 50 đồng đó, B giữ nguyên quyền yêu cầu A trả 50 đồng còn lại. Khi đó C thế quyền B đòi A trong giới hạn 50 đồng mà C đã trả thay. Thế quyền diễn ra trong nhiều tình huống khác nhau nhằm đảm bảo công bằng và lợi ích của các bên trong quan hệ pháp luật. Ví dụ trong quan hệ bảo hiểm: doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) là bên thế quyền, người được bảo hiểm là bên trao quyền (bên nắm giữ quyền gốc) và bên thứ ba gây ra thiệt hại cho người được bảo hiểm.

Thế quyền trong bảo hiểm là thuật ngữ mô tả quyền hợp pháp của DNBH yêu cầu bên thứ ba gây ra tổn thất cho người được bảo hiểm tiến hành bồi hoàn số tiền DNBH đã chi trả cho người được bảo hiểm.([5]) Thế quyền chỉ phát sinh sau khi DNBH đã tiến hành bồi thường cho người được bảo hiểm căn cứ vào sự kiện bảo hiểm đã xảy ra và các thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm giữa DNBH và người được bảo hiểm.([6]) Điều này đồng nghĩa với việc, sau khi nhận bồi thường, người được bảo hiểm có nghĩa vụ chuyển quyền đòi bên thứ ba gây thiệt hại bồi thường sang cho DNBH và đây được xem là nghĩa vụ bắt buộc đối với người được bảo hiểm.([7]) Cụ thể,  tại điểm e khoản 1 Điều 17 Luật Kinh doanh bảo hiểm (KDBH) Việt Nam quy định DNBH có quyền: “Yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm do người thứ ba gây ra đối với tài sản và trách nhiệm dân sự”. Những nội dung cụ thể thực hiện thế quyền trong các loại hình bảo hiểm khác nhau được quy định tại Điều 37, Điều 49 của Luật này.

Mục đích của việc thế quyền nhằm đảm bảo DNBH thu hồi một phần hoặc tối đa số tiền mà DNBH đã trả cho người được bảo hiểm. Khi yêu cầu bên thứ ba bồi thường thiệt hại, DNBH sẽ có quyền pháp lí tương tự như người được bảo hiểm khi người được bảo hiểm yêu cầu bên thứ ba gây ra thiệt hại bồi thường. Tính công bằng và đảm bảo lợi ích của các bên trong quan hệ pháp luật bảo hiểm và quan hệ pháp luật bồi thường thiệt hại dựa vào các lí do sau:([8])

Một là DNBH không thể từ chối chi trả cho người được bảo hiểm đơn thuần trên cơ sở người được bảo hiểm đã yêu cầu bên thứ ba gây ra thiệt hại bồi thường vì nghĩa vụ của DNBH phát sinh trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm giao kết giữa người được bảo hiểm và DNBH;

Hai là về phía bên thứ ba gây ra thiệt hại cũng không thể từ chối trách nhiệm bồi thường với lí do DNBH sẽ hoặc phải bồi thường cho người được bảo hiểm.

Ba là về phía người được bảo hiểm cũng không thể nhận khoản tiền bồi thường từ các bên nhiều hơn thiệt hại hay tổn thất đã xảy ra.

Thế quyền có mục đích nhằm ngăn chặn người được bảo hiểm nhận được sự bù đắp tổn thất vượt quá việc bồi thường ngang giá trị tổn thất (nguyên tắc bồi thường tổn thất đầy đủ - full idemnity).([9]) Trong hoạt động bảo hiểm, thế quyền dựa trên nguyên tắc bồi thường của hợp đồng bảo hiểm, chính vì vậy, các bên trong quan hệ pháp luật bảo hiểm (DNBH và người được bảo hiểm) có thể thoả thuận những nội dung liên quan đến thế quyền trong hợp đồng, thậm chí thay đổi hoặc từ bỏ việc thế quyền. Một cách phổ biến, trong hợp đồng bảo hiểm, các bên thường thoả thuận cho phép DNBH có quyền kiểm soát quá trình yêu cầu bên thứ ba gây thiệt hại bồi thường, thậm chí trước khi bên thứ ba bồi thường cho người được bảo hiểm; hoặc yêu cầu người được bảo hiểm không nhận bồi thường từ bên thứ ba nếu không có sự đồng ý của DNBH.([10])

Ví dụ, trong Quy tắc bảo hiểm rủi ro xây dựng, DNBH quy định điều khoản thế quyền cụ thể như sau: Người được bảo hiểm… phải thực hiện, kết hợp thực hiện với công ti bảo hiểm và được cho phép bởi công ti bảo hiểm thực hiện mọi hành động và mọi công việc xét thấy cần thiết hay theo yêu cầu của công ti bảo hiểm nhằm bảo vệ các quyền hay quyền đòi bồi thường hay để có được sự bồi hoàn hay bồi thường từ các bên khác (không phải những người được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm này), những khoản mà công ti bảo hiểm phải được hay sẽ được hưởng hay sẽ được thế quyền sau khi đã thanh toán hay bồi thường hay đã thay thế sửa chữa mất mát hay thiệt hại theo hợp đồng bảo hiểm này cho dù hành động hay những công việc nói trên cần phải thực hiện hoặc được yêu cầu thực hiện trước hay sau khi công ti bảo hiểm bồi thường cho người được bảo hiểm”.([11]) Như vậy, trong điều khoản thế quyền này, DNBH yêu cầu người được bảo hiểm đảm bảo quyền thế quyền của DNBH và DNBH được chủ động thực hiện thế quyền trước hay sau thời điểm thực hiện việc bồi thường cho người được bảo hiểm, kiểm soát quá trình yêu cầu chuyển quyền đòi bồi hoàn, yêu cầu bên khác gây thiệt hại bồi thường.

Khi cả hai bên hoặc một trong hai bên (DNBH và bên mua bảo hiểm) không mong muốn thực hiện thế quyền, các bên có thể thoả thuận từ bỏ thế quyền. Pháp luật bảo hiểm Việt Nam cũng như pháp luật bảo hiểm nhiều quốc gia không quy định vấn đề từ bỏ thế quyền mà để ngỏ cho các bên trong quan hệ bảo hiểm tự thoả thuận trên nguyên tắc tự do ý chí, không vi phạm điều cấm của luật và trật tự công. Để việc từ bỏ thế quyền có hiệu lực pháp lí với các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm, vấn đề này phải được các bên thoả thuận rõ trong hợp đồng bảo hiểm.

Mục đích của việc áp dụng điều khoản từ bỏ thế quyền nhằm tránh các khiếu nại, khiếu kiện đòi bồi thường của DNBH đối với một hoặc một số bên thứ ba được xác định trước trong hợp đồng bảo hiểm là có khả năng gây ra thiệt hại trong tương lai một cách không cố ý, mang tính ngẫu nhiên. Bởi lẽ, đối với DNBH, việc thế quyền đòi bên thứ ba gây thiệt hại bồi thường không phải lúc nào cũng thuận lợi, thậm chí gây tốn kém chi phí cho các thủ tục tư pháp hay đối mặt với việc từ chối chuyển quyền thế quyền của bên mua bảo hiểm… Khi mục đích áp dụng thế quyền có thể không đạt được hiệu quả, DNBH chủ động đề xuất từ bỏ thế quyền ngay từ đầu, để thay bằng lợi ích khác trong thoả thuận bảo hiểm với bên mua bảo hiểm (như tăng phí bảo hiểm, giảm bớt trách nhiệm bảo hiểm…) hoặc thoả thuận từ bỏ thế quyền sau khi sự kiện bảo hiểm xảy ra và trước khi tiến hành bồi thường cho phía bên mua bảo hiểm.

Về phía bên mua bảo hiểm, trong nhiều trường hợp, bên mua bảo hiểm không muốn đòi bồi thường từ các bên thứ ba có khả năng gây ra thiệt hại vì bên thứ ba có thể có quan hệ mật thiết với họ như đối tác, nhân viên, người phục vụ… nên họ không muốn chuyển quyền cho DNBH đòi bồi thường. Ví dụ, trong nghiệp vụ bảo hiểm mọi rủi ro đối với tài sản, chủ sở hữu tài sản có thể là bên mua bảo hiểm cho tài sản, những đối tượng khác như bên thuê tài sản, bên sử dụng tài sản… có thể là bên thứ ba có khảnăng gây thiệt hại cho tài sản một cách không cố ý, mang tính khách quan, khi đó bên mua bảo hiểm không mong muốn đòi bồi thường từ các bên thứ ba này. Hay trong bảo hiểm công trình xây dựng, bên thứ ba có khả năng gây thiệt hại có thể là các bên có liên quan đặc biệt tới công trình xây dựng như nhà thầu phụ, đối tác, nhân viên của bên mua bảo hiểm... họ có cùng lợi ích kinh tế như bên được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm -  chủ đầu tư công trình hay nhà thầu chính của công trình xây dựng.

Một khi bên bị thiệt hại muốn từ bỏ quyền yêu cầu bồi thường đối với bên thứ ba có khả năng gây thiệt hại thì họ cũng không muốn thực hiện chuyển quyền cho DNBH đòi bồi thường. Khi đó, mong muốn của bên mua bảo hiểm là chỉ duy nhất DNBH chi trả bồi thường khi sự kiện bảo hiểm xảy ra và DNBH từ bỏ thế quyền đòi bồi thường. Tuy nhiên, thế quyền là quyền pháp lí của DNBH trong quan hệ bảo hiểm, do đó bên mua bảo hiểm phải thoả thuận với DNBH để DNBH từ bỏ quyền này khi giao kết hợp đồng bảo hiểm hoặc trước khi DNBH thực hiện bồi thường cho bên mua bảo hiểm.

Như vậy, từ bỏ thế quyền được thực hiện trên cơ sở thoả thuận tự nguyện của bên mua bảo hiểm và DNBH trong hợp đồng bảo hiểm, việc thoả thuận từ bỏ thế quyền có thể thực hiện ngay từ khi giao kết HĐBH - khi chưa xác định bên thứ ba gây thiệt hại; có thể khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra xác định được chính xác bên thứ ba gây thiệt hại và trước khi DNBH tiến hành chi trả bồi thường.

2. Nghĩa vụ bắt buộc tham gia bảo hiểm công trình xây dựng và điều khoản từ bỏ thế quyền trong hợp đồng bảo hiểm công trình xây dựng tại Việt Nam

Hoạt động đầu tư xây dựng ở Việt Nam hiện nay đang ngày càng phát triển theo chiều hướng tăng mạnh về quy mô xây dựng, nguồn vốn đầu tư. Trong quá trình đầu tư xây dựng, giai đoạn thi công thường chiếm thời gian dài và chi phí lớn so với các giai đoạn khác; đồng thời đòi hỏi nhà thầu xây dựng phải quản lí số lượng lớn công nhân, vật tư, máy móc, trang thiết bị kĩ thuật cũng như có nguy cơ chịu nhiều rủi ro từ các yếu tố tự nhiên, xã hội. Do đó, pháp luật đã đặt ra yêu cầu chủ đầu tư dự án và nhà thầu phải tham gia bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối vớicác rủi ro nhất định phát sinh trong công trình xây dựng . Ngoài các trường hợp bắt buộc theo luật này, chủ đầu tư, nhà thầu tư vấn, nhà thầu xây dựng được khuyến khích mua các loại hình bảo hiểm khác để hạn chế tổn thất ở mức thấp nhấtkhi rủi ro xảy ra.

Theo khoản 1 Điều 9 Luật Xây dựng năm 2014 (sửa đổi năm 2020), bảo hiểm trong hoạt động đầu tư xây dựng bao gồm: bảo hiểm công trình trong thời gian xây dựng; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp tư vấn đầu tư xây dựng; bảo hiểm đối với vật tư, vật liệu, phương tiện, thiết bị thi công, người lao động; bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba; bảo hiểm bảo hành công trình xây dựng. Theo đó, khoản 2 Điều 9 Luật này quy định chủ đầu tư, nhà thầu tư vấn, nhà thầu thi công công trình bắt buộc mua bảo hiểm trong các trường hợp sau:

- Chủ đầu tư phải mua bảo hiểm công trình trong thời gian xây dựng đối với công trình có ảnh hưởng đến an toàn cộng đồng, môi trường, công trình có yêu cầu kĩ thuật đặc thù, điều kiện thi công xây dựng phức tạp.([12]) Trường hợp phí bảo hiểm công trình đã được tính vào giá hợp đồng được kí kết giữa nhà đầu tư và nhà thầu thì nhà thầu có trách nhiệm mua bảo hiểm công trình đối với công trình đó.

- Nhà thầu tư vấn mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp tư vấn đầu tư xây dựng đối với công việc khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng của công trình xây dựng từ cấp II trở lên.([13])

- Nhà thầu thi công xây dựng mua bảo hiểm đối với người lao động thi công trên công trường.([14])

Như vậy, đối với bảo hiểm công trình xây dựng, bên mua bảo hiểm có thể là chủ đầu tư dự án hay nhà thầu xây dựng dự án, tuỳ thuộc vào thoả thuận giữa chủ đầu tư và nhà thầu trong hợp đồng thầu dự án. Ngoài chủ đầu tư và nhà thầu chính, các bên khác tham gia vào công trình xây dựng như nhà thầu tư vấn thiết kế phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, nhà thầu phụ phải tham gia bảo hiểm đối với phần việc thầu phụliên quan đến công trình…

Tuy nhiên, tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, nếu chủ đầu tư hay nhà thầu chính của công trình xây dựng muốn thực hiện miễn trừ trách nhiệm đối với một số bên thứ ba có khả năng gây thiệt hại cho công trình cụ thể là nhà thầu phụ của công trình, khi đó bên mua bảo hiểm cho công trình xây dựng sẽ tiến hành thỏa thuận với DNBH và yêu cầu DNBH từ bỏ quyền đòi bồi thường đối với một số bên thứ ba nhất định. Tình huống này dẫn đến việc từ bỏ thế quyền của DNBH nếu DNBH thoả thuận với bên mua bảo hiểm rằng DNBH là bên duy nhất bồi thường thiệt hại cho rủi ro đối với công trình và không đòi bên thứ ba gây thiệt hại phải bồi hoàn cho DNBH. Khi người có quyền gốc để đòi bồi thường từ bên thứ ba gây thiệt hại đã từ bỏ quyền yêu cầu bồi thường thiệt hạicủa mình thì DNBH không thể tiến hành thế quyền để đòi bồi hoàn từ bên thứ ba gây thiệt hại; đổi lại, DNBH có thể thoả thuận với bên mua bảo hiểm để gia tăng lợi ích của mình như tăng phí bảo hiểm hay giảm trừ vào số tiền sẽ bồi thường.

Thoả thuận từ bỏ thế quyền trong hợp đồng bảo hiểm thường được quy định theo cách thức liệt kê nhóm đối tượng mà DNBH từ bỏ thế quyền. Chẳng hạn, điều khoản từ bỏ thế quyền trong Quy tắc bảo hiểm công trình xây dựng của DNBH PTI được thiết kế như sau:

“PTI đồng ý từ bỏ bất kì quyền, nghĩa vụ hoặc sự đền bù mà họ có thể có quyền bằng cách thế quyền đối với:

(a) bất cứ người được bảo hiểm nào được nêu tên hoặc được mô tả trong đơn (bao gồm các giám đốc, đối tác, viên chức, nhân viên hoặc người phục vụ của người được bảo hiểm);

(b) bất cứ công ti hoặc tổ chức nào (bao gồm các giám đốc, đối tác, viên chức, nhân viên hoặc người phục vụ của các công ti/tổ chức đó) thuộc quyền sở hữu hoặc được kiểm soát bởi người được bảo hiểm có tên trong hợp đồng này hoặc chi nhánh của người được bảo hiểm có tên trong hợp đồng này hoặc người đồng sở hữu của tài sản được bảo hiểm dưới hợp đồng này”.([15])

Bên cạnh đó, một số hợp đồng bảo hiểm công trình xây dựng lựa chọn hình thức thể hiện khác như quy định các bên thứ ba được áp dụng từ bỏ thế quyền là “người đồng được bảo hiểm” (the co – insureds) trong hợp đồng bảo hiểm, đây là cách thể hiện ngầm định áp dụng thế quyền. Dù khái niệm người đồng được bảo hiểm không được đề cập trong Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam song đây không phải là khái niệm hoàn toàn mới mẻ. Về bản chất, người đồng được bảo hiểm cũng là người được bảo hiểm được quy định tại Khoản 7, Điều 3 Luật KDBH, theo đó, đây là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm công trình xây dựng. Cụ thể, ngoài chủ đầu tư hay nhà thầu chính của công trình xây dựng là bên giao kết hợp đồng bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm là người được bảo hiểm, các nhà thầu phụ hay các bên liên quan khác đến công trình xây dựng cũng là người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm công trình xây dựng. Do đó, họ cũng có tài sản, trách nhiệm trong công trình xây dựng được bảo hiểm như chủ đầu tư hay nhà thầu chính và không có nghĩa vụ bồi thường tổn thất khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.

Bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng (Construction All Risks - CAR) đối với các công trình xây dựng là loại hình bảo hiểm điển hình trong lĩnh vực xây dựng, phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, và có lịch sử hình thành vào những năm đầu thế kỷ XX. CAR là chính sách bảo hiểm cung cấp sự bảo vệ toàn diện bù đắp những thiệt hại liên quan đến công trình, nhà máy xây dựng, thiết bị và máy móc, cũng như bồi thường đối với các khiếu nại của bên thứ ba về thiệt hại tài sản hoặc thương tích cơ thể phát sinh liên quan đến việc xây dựng và thực hiện dự án xây dựng.([16]) CAR được thỏa thuận đầu tiên vào năm 1929 để bảo hiểm cho việc xây dựng Cầu Lambeth bắc qua sông Thames ở London, sau đó, quy tắc bảo hiểm CAR được phát hành ở Đức vào năm 1934. CAR thực sự phát triển và bùng nổ trong thời kỳ phục hồi kinh tế và xây dựng sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. ([17])

CAR thường quy định các bên được bảo hiểm gồm tất cả các bên liên quan đến dự án xây dựng, từ chủ sử dụng lao động, nhà thầu EPC (thực hiện công việc thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng công trình)và các nhà thầu phụ khác. Như vậy, các bên liên quan khác đến công trình xây dựng cũng là người được bảo hiểm bên cạnh nhà thầu chính - người được bảo hiểm đã đại diện tiến hành giao kết hợp đồng. Vì là một trong các bên được bảo hiểm, cùng chia sẻ quyền lợi bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm và tổn thất xảy ra được đảm bảo bồi thường bởi DNBH nên DNBH không thể thực hiện việc thế quyền đối với một trong các bên được bảo hiểm khác trong hợp đồng bảo hiểm để yêu cầu bồi hoàn.([18])

Ngoài ra, để làm rõ hơn việc bên thứ ba có liên quan đến công trình xây dựng được miễn trách nhiệm bồi thường thì hợp đồng thầu công trình xây dựng giữa chủ đầu tư và nhà thầu hoặc hợp đồng thầu giữa nhà thầu chính với các bên khác tham gia vào công trình xây dựng như nhà thầu phụ, nhà thầu tư vấn thiết kế cần có thoả thuận về điều khoản miễn trừ trách nhiệm (exclusion clause) đối với thiệt hại xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Về mặt lí luận, điều khoản miễn trừ trách nhiệm được định nghĩa là “một điều khoản, trong hợp đồng hay trong thông báo, miễn trừ hay hạn chế trách nhiệm theo luật định của một bên”.([19]) Vì vậy, nhà thầu chính, nhà thầu phụ hay các bên khác liên quan đến công trình được miễn trách nhiệm bồi thường khi có thiệt hại liên quan đến công trình thuộc phạm vi bảo hiểm. Xem xét các tài liệu mẫu trong lĩnh vực xây dựng được sử dụng phổ biến nhất do Viện Kiến trúc sư Hoa Kỳ (AIA) ban hành, mẫu thoả thuận tiêu chuẩn AIA giữa chủ sở hữu và kiến trúc sư, B101 - 2017, tại Điều 8.1.2, có điều khoản sau: Trong phạm vi thiệt hại được bảo hiểm bởi hợp đồng bảo hiểm tài sản, chủ đầu tư và kiến trúc sư từ bỏ tất cả các quyền yêu cầu bồi thường đối với nhau và đối với các nhà thầu, chuyên gia tư vấn, đại lí và nhân viên của bên kia đối với các thiệt hại, ngoại trừ các quyền như họ có thể phải tiến hành các thủ tục theo hợp đồng bảo hiểm tài sản như quy định trong tài liệu AIA A201 - 2017, điều kiện chung của hợp đồng xây dựng. Chủ đầu tư hoặc kiến trúc sư, nếu phù hợp, sẽ yêu cầu các nhà thầu, chuyên gia tư vấn, đại lí và nhân viên của bất kì ai trong số họ, thực hiện quyền miễn trừ trách nhiệm một cách tương tự, nhằm có lợi cho các bên khác được liệt kê ở đây.([20])

Với các thoả thuận được thiết lập trong các hợp đồng, từ điều khoản miễn trừ trách nhiệm trong các hợp đồng thầu công trình xây dựng và điều khoản từ bỏ thế quyền trong hợp đồng bảo hiểm giữa bên mua bảo hiểm và DNBH, DNBH không thể được bồi hoàn số tiền mà DNBH đã trả cho bên được bảo hiểm từ bất kì bên thứ ba xác định nói trên. Đương nhiên, hành vi gây thiệt hại cũng phải được xem xét không phải là hành vi cố ý phá hoại tài sản được bảo hiểm, là sự kiện bảo hiểm thuộc phạm vi bảo hiểm của DNBH, không thuộc các trường hợp loại trừ trách nhiệm của DNBH và thoả mãn các yếu tố làm phát sinh trách nhiệm chi trả số tiền bồi thường của DNBH.([21]) Mục đích xác lập các điều khoản thoả thuận bao gồm cả thoả thuận từ bỏ thế quyền nhằm đảm bảo lợi ích cho các bên được bảo hiểm và tránh kiện đòi bồi thường lẫn nhau, cho dù tổn thất hoặc thiệt hại đó do lỗi của một trong các bên được bảo hiểm hay bất kì bên nào có liên quan gây ra.([22])

3. Góc nhìn từ phán quyết toà án Vương quốc Anh trong hợp đồng bảo hiểm công trình xây dựng

Vào năm 2018, Toà án Vương quốc Anh đã giải quyết vụ án giữa Haberdashers (chủ đầu tư dự án - nguyên đơn) và Lakehouse (nhà thầu chính dự án - bị đơn thứ nhất), Cambridge Polymer Roofing (nhà thầu phụ lợp mái - bị đơn thứ hai),([23]) để xem xét vấn đề liệu DNBH công trình xây dựng có quyền thế quyền đối với nhà thầu phụ tham gia vào công trình xây dựng hay không? Nói cách khác, các nhà thầu phụ có được xem là bên đồng được bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm dự án xây dựng do chủ đầu tư dự án mua bảo hiểm và có quyền được hưởng quyền lợi của hợp đồng bảo hiểm dự án xây dựng hay không? Nội dung vụ án như sau:

Nguyên đơn (chủ đầu tư) đã kí kết hợp đồng xây dựng với công ti xây dựng Lakehouse là nhà thầu chính để thực hiện các hạng mục xây dựng một trường học. Sau đó, công ti xây dựng Lakehouse lại kí kết hợp đồng thầu phụ với một số nhà thầu phụ để thực hiện phần việc lợp mái. Theo yêu cầu trong hợp đồng xây dựng với nguyên đơn, nhà thầu chính đã mua bảo hiểm cho toàn bộ dự án xây dựng. Trong số các nhà thầu phụ thực hiện phần việc lợp mái, chỉ có một nhà thầu phụ đã thoả thuận với nhà thầu chính Lakehouse để tự thu xếp tham gia hợp đồng bảo hiểm riêng đối với phần trách nhiệm của mình lên tới hạn mức 5 triệu bảng Anh.

Trong khi nhà thầu phụ nói trên đang tiến hành “công việc thi công có nhiệt độ cao” (hot works) đã xảy ra cháy và gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho trường học. Nguyên đơn đã yêu cầu nhà thầu chính bồi thường 8,75 triệu Bảng Anh. Nhà thầu chính Lakehouse đã được DNBH chi trả số tiền bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm dự án xây dựng của nhà thầu chính đối với công trình. Sau đó, các DNBH được thế quyền để khiếu nại nhà thầu phụ đòi bồi hoàn. Trong hợp đồng bảo hiểm dự án xây dựng của nhà thầu chính có điều khoản giải thích người được bảo hiểm trong hợp đồng này bao gồm nhà thầu chính Lakehouse (bị đơn thứ nhất của vụ kiện) và các nhà thầu phụ công trình (tức cả bị đơn thứ hai của vụ kiện).

DNBH tiến hành quyền thế quyền đối với nhà thầu phụ lợp mái với số tiền đòi bồi hoàn là 5 triệu Bảng Anh vì nhà thầu phụ đã thoả thuận với nhà thầu chính chịu trách nhiệm bảo hiểm riêng biệt đối với phần công việc của họ. Tuy nhiên, nhà thầu phụ từ chối bồi hoàn số tiền trên cho DNBH với lí do họ là người đồng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm dự án xây dựng nên DNBH đã từ bỏ quyền thế quyền để khiếu nại họ đòi bồi hoàn. Mặc dù các nhà thầu phụ không được nêu rõ là người đồng được bảo hiểm nhưng họ đều thuộc danh mục các nhà thầu phụ - mà theo giải thích thông thường là người đồng được bảo hiểm. Còn DNBH lập luận rằng, cũng có trường hợp ngoại lệ khi nhà thầu phụ được yêu cầu phải giao kết hợp đồng bảo hiểm riêng biệt đối với phần trách nhiệm của họ trong dự án xây dựng, khi đó DNBH đã chi trả trách nhiệm bảo hiểm cho phần trách nhiệm của nhà thầu phụ có quyền yêu cầu họ bồi hoàn.

Toà án đã phán quyết rằng, trong hợp đồng thầu phụ đã có điều khoản quy định nhà thầu phụ phải thu xếp bảo hiểm đối với phần trách nhiệm của mình, có nghĩa là nhà thầu phụ đó không có quyền lợi bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm dự án xây dựng.

Vấn đề đầu tiên để toà án xem xét là dựa trên quy định pháp luật về đại diện.([24]) Nhà thầu phụ cho rằng họ trở thành một bên tham gia hợp đồng bảo hiểm dự án xây dựng giữa nhà thầu chính và DNBH vì nhà thầu chính đóng vai trò là người đại diện của nhà thầu phụ và nhà thầu phụ phê chuẩn hành vi của nhà thầu chính trong việc giao kết thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, thẩm phán cho rằng, người được bảo hiểm chính (nhà thầu chính) không thể đại diện cho nhà thầu phụ, trừ khi danh mục các nhà thầu phụ có khả năng tham gia dự án được xác định tại thời điểm hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực. Tuy nhiên, trong tình huống này, vào thời điểm hợp đồng bảo hiểm được giao kết và có hiệu lực, các bên không xác định được chính xác nhà thầu phụ nào sẽ tham gia dự án. Đồng thời, tại thời điểm hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, nhà thầu phụ sẽ hoặc không thể phê chuẩn các hành vi của người được bảo hiểm chính nếu nhà thầu phụ không có quyền lợi có thể được bảo hiểm.([25]) Thẩm phán kết luận, các khái niệm về người đại diện không phù hợp để áp dụng với tình huống này.

Vấn đề thứ hai, Toà án xem xét bản chất pháp lí của các điều khoản được thỏa thuận mang bản chất “đề nghị thường trực” (standing offer)([26]) trong hợp đồng bảo hiểm dự án (các điều khoản về người được bảo hiểm và điều khoản từ bỏ thế quyền đối với người được bảo hiểm). Với điều khoản về “người được bảo hiểm”, DNBH đã đưa ra một đề nghị thường trực để bảo đảm quyền lợi cho những chủ thể sau thời điểm HĐBH được giao kết, nhưng cũng được xác định là người được bảo hiểm (ví dụ: nhóm các nhà thầu phụ, đảm bảo các nhà thầu phụ nào sau đó tham gia dự án sẽ trở thành người đồng được bảo hiểm của dự án và từ đó hưởng lợi từ việc từ bỏ thế quyền của DNBH). Các loại điều khoản thường trực như vậy sẽ được nhà thầu phụ chấp nhận thỏa thuận với nhà thầu chính tại thời điểm đồng ý tham gia thầu phụ công trình với nhà thầu chính. Việc giao kết các điều khoản đề nghị thường trực giữa DNBH và nhà thầu chính dẫn đến tồn tại điều khoản ngầm định trong hợp đồng giữa nhà thầu chính và nhà thầu phụ rằng nhà thầu chính không thể yêu cầu nhà thầu phụ bồi thường đối với các tổn thất thuộc phạm vi được bảo hiểm của dự án. Cụ thể, thẩm phán đã đưa ra phân tích dựa vào Quy tắc Bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng - CAR của DNBH. Trong đó, điều khoản giải thích khái niệm người được bảo hiểm bao gồm tất cả các nhà thầu phụ xác định khi thực hiện hợp đồng thầu phụ liên quan dự án. Việc chấp nhận giao kết hợp đồng bảo hiểm dự án xây dựng giữa nhà thầu chính với DNBH đã tạo ra điều khoản ràng buộc ngầm định rằng, khi nhà thầu phụ giao kết hợp đồng với nhà thầu chính cho phần công việc của dự án xây dựng, họ đã trở thành người đồng được bảo hiểm và người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm dự án xây dựng của nhà thầu chính với DNBH. Do đó, nhà thầu chính không thể yêu cầu nhà thầu phụ bồi thường đối với tổn thất thuộc phạm vi được bảo hiểm của dự án.

Tuy nhiên, trong hợp đồng thầu phụ ở vụ án này lại có điều khoản thoả thuận, theo đó nhà thầu phụ phải tự chịu trách nhiệm giao kết hợp đồng bảo hiểm riêng biệt đối với phần công việc thầu lại.([27]) Thẩm phán đã phân tích ý định chủ quan của các bên kí kết hợp đồng thầu phụ và thấy rằng nhà thầu phụ không thể hiện mong muốn được hưởng lợi từ Quy tắc bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng trong hợp đồng bảo hiểm dự án xây dựng và đã tự mình thực hiện giao kết hợp đồng bảo hiểm, mặc dù với giới hạn thấp hơn nhiều Quy tắc bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng. Do đó, bên nhà thầu phụ không phải là người đồng được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm dự án xây dựng của nhà thầu chính và cũng không được xem là đối tượng DNBH phải từ bỏ thế quyền. Tổn thất từ sự kiện cháy trong vụ án này vượt quá giới hạn của hạn mức bảo hiểm riêng của nhà thầu phụ trong 5 triệu Bảng Anh và DNBH của nhà thầu chính chỉ thực hiện quyền thế quyền đến mức giới hạn trách nhiệm bảo hiểm của nhà thầu phụ theo hợp đồng thầu phụ chứ không phải là toàn bộ giá trị của tổn thất là 8,75 triệu Bảng Anh.

Từ vụ án trên có thể đưa ra một số khuyến nghị và lưu ý đối với các nhà thầu phụ trong việc áp dụng điều khoản từ bỏ thế quyền, đặc biệt trong bối cảnh phát triển thị trường bảo hiểm trong lĩnh vực xây dựng tại Việt Nam. Nghĩa vụ pháp lý tham gia bảo hiểm bắt buộc trong công trình xây dựng được thừa nhận ở  nhiều nền tài phán. Tại Việt Nam, Quy tắc bảo hiểm CAR được nhiều DNBH ban hành và thỏa thuận phổ biến với khách hàng trong lĩnh vực xây dựng, ví dụ như bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng của Công ty TNHH bảo hiểm phi nhân thọ MSIG Việt Nam, ([28]) bảo hiểm công trình của Công ty PVI, ([29]) bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng của Công ty bảo hiểm Chubb, ([30]). Mặc dù hiện nay tranh chấp về bồi thưởng bảo hiểm trong lĩnh vực xây dựng và đặc biệt liên quan đến điều khoản thế quyền và từ bỏ thế quyền chưa xuất hiện, nhưng tiềm ẩn khả năng cao xảy ra tranh chấp liên quan đến vấn đề này. Do đó, thông qua việc phân tích phán quyết của cơ quan tài phán ở Anh và chỉ ra các vấn đề pháp lý, tác giả muốn khuyến nghị vài lưu ý đối với nhà thầu chính, nhà thầu phụ và DNBH trong việc bảo hiểm cho công trình xây dựng tại Việt Nam như sau:

Thứ nhất, trên thực tiễn hợp đồng thầu phụ giữa nhà thầu chính và nhà thầu phụ có thể thoả thuận riêng biệt về việc nhà thầu phụ phải tham gia bảo hiểm cho các rủi ro từ công việc thầu phụ. Từ đó, thỏa thuận này sẽ tạo ra nghĩa vụ ràng buộc trách nhiệm của nhà thầu phụ tự bảo hiểm cho phần công việc thầu phụ. Đồng thời, nhà thầu phụ đương nhiên không còn là bên đồng được bảo hiểm trong HĐBH dự án xây dựng được giao kết trước đó giữa nhà thầu chính và DNBH.

Do đó, trên thực tiễn, các nhà thầu phụ lưu ý khi kí kết thoả thuận thầu phụ, cần xem xét khả năng tự bảo hiểm cho công việc thầu phụ hay thoả thuận là bên đồng được bảo hiểm với nhà thầu chính để được miễn trách nhiệm bảo hiểm cho phần công việc thầu phụ.

Thứ hai, trong phán quyết này, Tòa án Anh đã giải thích giới hạn phạm vi áp dụng của “điều khoản từ bỏ thế quyền” , điều khoản “người đồng được bảo hiểm” trong HĐBH công trình xây dựng và tính ưu tiên áp dụng các thỏa thuận  giữanhà thầu phụ và nhà thầu chínhđược ký kết sau thỏa thuận bảo hiểm của nhà thầu chính. Thay vì cách hiểu truyền thống rằng tất cả các nhà thầu phụ tương lai của dự án đương nhiên được xem là người đồng được bảo hiểm và DNBH không đòi bồi hoàn từ các nhà thầu phụ gây ra tổn thất cho công trình xây dựng. Giờ đây, các DNBH chỉ từ bỏ thế quyền đối với các nhà thầu phụ không đồng ý tự chịu trách nhiệm bảo hiểm cho phần công việc thầu phụ trong hợp đồng thầu phụ. Do đó, các bên tham gia hợp đồng thầu nên chú ý thoả thuận rõ ràng trong hợp đồng thầu phụ sẽ thay thế mọi ý định không chính thức hoặc ngụ ý trong HĐBH công trình xây dựng của nhà thầu chính đã kí trước đó; đồng thời các thoả thuận giữa các nhà thầu phụ và nhà thầu chính sẽ được ưu tiên áp dụng nếu có sự xung đột hay ý nghĩa khác biệt với thoả thuận trước đó giữa nhà thầu chính và DNBH về nội dung có liên quan đến người được bảo hiểm và thế quyền. Từ đó, dù DNBH đã tuyên bố từ bỏ thế quyền trong HĐBH công trình xây dựng đối với nhà thầu phụ, DNBH có thể khôi phục lại việc thế quyền của mình đối với nhà thầu phụ tham gia sau vào công trình xây dựng.

Thứ ba, những nhà thầu phụ khi nhận thầu lại công việc từ nhà thầu chính cần phải xem xét kĩ phần công việc thầu lại có thuộc phạm vi bảo hiểm trong HĐBH công trình xây dựng hay không. Nếu phần việc của nhà thầu phụ chưa được tham gia bảo hiểm bởi nhà thầu chính, nhà thầu phụ phải tự tham gia bảo hiểm cho phần công việc thầu phụ, khi đó nhà thầu phụ xác định thoả thuận rõ ràng với nhà thầu chính về hạn mức trách nhiệm bảo hiểm, cũng như xem xét việc tính phí bảo hiểm trong phần giá trị công việc thầu phụ trong hợp đồng thầu phụ./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. James M. Mullen, “The Equitable Doctrine of Subrogation, 3 Md. L. Rev. 202, 1939.

2. John Lowry, P J Rawlings, Robert Merkin, Insurance Law - Doctrines and Principles, 3rd Edition, Hart Publishing, 2011.

3. Bạch Thị Nhã Nam, “Nhận diện bản chất pháp lí của hoạt động chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn trong Luật Kinh doanh bảo hiểm”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 19/2019.

4. Bạch Thị Nhã Nam, “Quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản”, Tạp chí Nghề luật, số 05/2018.

5. Yates, D., Exclusion Clauses in Contracts, (2nd Edition), Sweet & Maxwell, 1982.

 



([1]). James M. Mullen, “The Equitable Doctrine of Subrogation, 3 Md. L. Rev. 202, 1939, tr. 1, http://digitalcommons.law.umaryland.edu/mlr/vol3/iss3/1, truy cập 01/6/2021.

([2]). James M. Mullen, tlđd, tr. 1.

([3]). Bạch Thị Nhã Nam, “Nhận diện bản chất pháp lí của hoạt động chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn trong Luật Kinh doanh bảo hiểm”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 19/2019, tr. 17 - 25.

([4]). James M. Mullen, tlđd, tr. 1.

(5). Xem giải thích thuật ngữ tại: https://www.investopedia.com/terms/s/subrogation.asp, truy cập 01/6/2021.

([6]). Bạch Thị Nhã Nam, “Nhận diện bản chất pháp lí của hoạt động chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn trong Luật Kinh doanh bảo hiểm”, tlđd, tr. 17 - 25.

([7]). Bạch Thị Nhã Nam, “Nhận diện bản chất pháp lí của hoạt động chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn trong Luật Kinh doanh bảo hiểm”, tlđd, tr. 17 - 25.

([8]). John Lowry, P J Rawlings, Robert Merkin, Insurance Law - Doctrines and Principles, 3rd Edition, Hart Publishing, 2011, tr. 349.

([9]). Phán quyết vụ Castellain và Preston (1883), 1 QBD 380, đoạn 386, của Toà án tối cao Vương quốc Anh), toàn bộ phán quyết  xem tại: https://archive.org/stream/jstor-3304577/3304577_djvu.txt, truy cập 01/6/2021.

([10]). Phán quyết vụ Terry và Trafalgar Insurance Co Ltd, 1 Lloyd's Rep, 1970, 524, https://www.i-law.com/ilaw/doc/view.htm?id=146477, truy cập 01/6/2021.

([11]). Quy tắc Bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng của DNBH Liberty, https://www.libertyinsurance.com.vn/en/business-insurance-site/Documents/Policy%20Wordings/Engineering/UW-ECA-W-001-04-V_CAR%20Wording.pdf, truy cập 01/6/2021. Liberty là công ti bảo hiểm tài sản và thiệt hại hoạt động từ năm 1912, có trụ sở chính tại Boston, Hoa Kỳ và có mặt tại thị trường Việt Nam vào năm 2003.

([12]). Các công trình có ảnh hưởng đến an toàn cộng đồng, môi trường, công trình có yêu cầu kĩ thuật đặc thù, điều kiện thi công xây dựng phức tạp được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định số 119/2015/NĐ-CP ngày 13/11/2015 của Chính phủ quy định bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng.

([13]). Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Thông tư số 329/2016/TT-BTC ngày 26/12/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 119/2015/NĐ-CP quy định bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng: đối tượng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp tư vấn đầu tư xây dựng được xác định là trách nhiệm dân sự của nhà thầu tư vấn đầu tư xây dựng đối với bên thứ ba phát sinh từ việc thực hiện công việc khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng công trình xây dựng từ cấp II trở lên.

([14]). Theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Thông tư số 329/2016/TT-BTC, đối tượng bảo hiểm đối với người lao động thi công trên công trường được xác định là trách nhiệm dân sự của nhà thầu thi công xây dựng đối với người lao động thi công trên công trường theo quy định của pháp luật.

([15]). Quy tắc Bảo hiểm công trình xây dựng của DNBH PTI: https://www.epti.vn/upload/H2%20-%20Dieu%20khoan%20bo%20sung%20Home.docx, truy cập 01/6/2021.

([16]).B.A.K.S. Perera, R.M.C.K. Rathnayake, R Rameezdeen, Use of insurance in managing construction risks: Evaluation of Contractors’ All Risks( CAR) insurance policy, Built-Environment - Sri Lanka - Vol. 08, Issue 02, 2008, tr 24 – 26;   Suwisai Musundire, Clinton Aigbavboa, Management  of construction risk through contractor’s all risk insurance policy – a South Afica case study, 11th Construction Specialty Conference, 2015, tr.192-3, https://open.library.ubc.ca/cIRcle/collections/52660/items/1.0076338,  truy cập ngày 01/6/2021.

([17]).Wassmer, L, Contractors’ All Risks insurance, Swiss Reinsurance Company: Zurich, 1998, tr.5, 1998, tài liệu cung cấp tại đường dẫn: http://ib-apostle.narod.ru/contractorsrisk.Paras.0003.File.pdf,, truy cập ngày 01/6/2021.

([18]). Xem phán quyết vụ National Oilwell (UK) Ltd v Davy Offshore Ltd [1993] 2 Lloyd’s Rep 582, https://www.i-law.com/ilaw/doc/view.htm?id=149691, truy cập 01/6/2021.

([19]). Yates, D., Exclusion Clauses in Contracts, (2nd Edition), Sweet & Maxwell, 1982, tr. 1.

([20]). Mẫu Thoả thuận tiêu chuẩn AIA giữa chủ sở hữu và kiến trúc sư, B101 – 2017, https://www.aiacontracts.org/contract-documents/25141-owner-architect-agreement, truy cập 01/6/2021.

([21]). Xem thêm vụ án Interstate Fire and Casualty Insurance Company v. Cleveland Wrecking Company (2010) 182 Cal.App.4th 23 trước tòa án  bang California Hoa Kỳ vào năm 2010, trong đó nhà thầu phụ phải bồi hoàn cho DNBH của nhà thầu chính số tiền bảo hiểm được chi trả cho sự kiện bảo hiểm do lỗi bất cẩn của nhà thầu phụ, https://www.smithcurrie.com/publications/california-law-notes/subcontractor-fails-provide-insurance-must-reimburse-general-contractors-insurer-february-22-2010/, truy cập 01/6/2021.

([22]). Haberdashers’ Aske’s Federation Trust Limited and others v. Lakehouse Contracts Limited and others [2018] EWHC 558 (TCC) (2018), https://www.insurancelaw.london/2018/03/haberdashers-askes-federation-trust-limited-others-v-lakehouse-contracts-limited-others-2018-ewhc-558-tcc/, truy cập 01/6/2021.

([23]). Xem toàn văn phán quyết vụ Haberdashers’ Aske’s Federation Trust v Lakehouse Contracts [2018] EWHC 588 (TCC) tại http://www.bailii.org/ew/cases/EWHC/TCC/2018/558.html, truy cập 01/6/2021.

([24]). Xem đoạn 46 của phán quyết Haberdashers’ Aske’s Federation Trust v Lakehouse Contracts [2018] EWHC 588 (TCC), https://www.lexology.com/library/detail.aspx?g=57afca4a-198a-48e1-97c8-6557ce15ea43. Xem thêm bản tin cập nhật vụ án - Case Alert - Lakehouse Contracts & Ors [2018] EWHC 558 (TCC) (“Haberdashers”), https://www.insurancelaw.london/2018/03/haberdashers-askes-federation-trust-limited-others-v-lakehouse-contracts-limited-others-2018-ewhc-558-tcc/, truy cập  01/6/2021.

([25]). “Một người được xem là có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với tài sản nếu như người đó nhận được một lợi ích kinh tế từ việc tồn tại của tài sản, hoặc sẽ chịu tổn thất cho việc hư hại, phá hủy của tài sản…”. Xem: Bạch Thị Nhã Nam, “Quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản”, Tạp chí Nghề luật, số 05/2018, tr. 32 - 37.

([26]). Xem đoạn 70 của phán quyết Haberdashers’ Aske’s Federation Trust v Lakehouse Contracts [2018] EWHC 588 (TCC), https://www.lexology.com/library/detail.aspx?g=57afca4a-198a-48e1-97c8-6557ce15ea43, truy cập  01/6/2021.

([27]). Đoạn 72 của phán quyết Haberdashers’ Aske’s Federation Trust v Lakehouse Contracts [2018] EWHC 588 (TCC), tlđd.

([28]).Xem giới thiệu sản phẩm bảo hiểm tại https://www.msig.com.vn/vi/bao-hiem-doanh-nghiep/bao-hiem-moi-rui-ro-xay-dung, truy cập  01/6/2021.

([29]).Xem giới thiệu sản phẩm bảo hiểm tại https://pvisg.vn/san-pham/bao-hiem-cong-trinh/, truy cập  01/6/2021.

([30]).Xem giới thiệu sản phẩm bảo hiểm tại https://www.chubb.com/vn-vn/business/construction-all-risks-builders-risk-insurance.html, truy cập  01/6/2021.


Nguon: Tạp chí Luật học. so thang 06/2021.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 22/2018/AL VỀ NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG TIN CỦA BÊN MUA BẢO HIỂM

Trách nhiệm cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm giai đoạn tiền hợp đồng

NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG TIN TIỀN HỢP ĐỒNG DƯỚI GÓC NHÌN KINH TẾ HỌC PHÁP LUẬT