Gian lận bảo hiểm nhân thọ và giải pháp phòng, chống gian lận
GIAN LẬN BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ GIẢI
PHÁP PHÒNG CHỐNG GIAN LẬN BẢO HIỂM
Bạch Thị
Nhã Nam
Giảng viên Khoa Luật,
Trường đại học Kinh tế - Luật, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Nguồn: http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210878
(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 14 (438), tháng 7/2021.)
Tóm tắt: Pháp
luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam đã có các quy định nhằm phòng chống hành
vi gian lận trong bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng, và quy
định tội danh gian lận trong kinh doanh bảo hiểm trong Bộ luật Hình sự hiện
hành. Tuy nhiên, các trường hợp gian lận bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ vẫn
không ngừng gia tăng trong thời gian qua, và hành vi gian lận ngày càng tinh vi
hơn, có tính chất nguy hiểm hơn cho xã hội. Bài viết đề xuất xây dựng khái niệm
gian lận bảo hiểm, đặc biệt trong bảo hiểm nhân thọ nhằm thúc đẩy các nỗ lực chính
thức hóa cách hiểu về gian lận bảo hiểm một cách có hệ thống. Đồng thời, bài
viết cũng chỉ ra những thiếu sót của khung pháp luật thực định, đề xuất cách
hoàn thiện quy định nhằm tăng cường việc phòng chống gian lận bảo hiểm, và kiến
nghị thành lập cơ quan chuyên trách giám sát, phòng chống gian lận bảo hiểm.
Từ khóa: gian lận, bảo hiểm, nhân thọ
1. Khái niệm gian lận bảo hiểm nhân thọ và nhận diện một số
hành vi gian lận trên thực tiễn
1.1. Đề xuất xây dựng khái niệm gian lận
bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ
Bộ nguyên tắc của Luật hợp đồng bảo hiểm châu
Âu năm 2009 (PEICL) có đưa ra định nghĩa về bảo hiểm nhân thọ (BHNT) là “ bảo hiểm mà trách nhiệm của DNBH là chi trả
một khoản tiền dựa trên các sự kiện bảo hiểm đã thỏa thuận riêng biệt trong hợp
đồng bảo hiểm liên quan đến sự sống hoặc cái chết của người được bảo hiểm”.[1] Cách
định nghĩa này thể hiện được đặc trưng của BHNT, nhất là thỏa thuận giữa doanh
nghiệp bảo hiểm (DNBH) và người tham
gia bảo hiểm mà theo đó, DNBH sẽ phải trả một khoản tiền phụ thuộc
vào sự sống hoặc chấm dứt sự sống của người được bảo hiểm và sự
kiện bảo hiểm này phải được thỏa thuận rõ trong hợp đồng bảo hiểm.
Kinh doanh bảo hiểm (KDBH) bao gồm cả KDBH nhân
thọ là hoạt động của DNBH nhằm mục đích sinh lợi, theo đó DNBH chấp nhận rủi ro
của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm (BMBH) đóng phí bảo hiểm
để DNBH trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được
bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.[2] Như vậy, khi doanh nghiệp
bảo hiểm thu phí của BMBH đồng nghĩa với việc doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải
gánh chịu một mức trách nhiệm bồi thường hay chi trả số tiền bảo hiểm đối với những
rủi ro được bảo hiểm tương ứng mức phí bảo hiểm đã thu. Tuy nhiên, xuất phát từ
lòng tham của con người đối với số tiền bồi thường hay số tiền bảo hiểm mà DNBH
có thể chi trả khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, không ít người có những hành vi gian
dối, thiếu thiện chí, và trái với thỏa thuận trong hợp đồng nhằm kiếm lợi ích
bất hợp pháp trong quan hệ bảo hiểm. Hiện nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam nói
riêng và thế giới nói chung đang đối mặt với những hành vi gian lận bảo hiểm
của người tham gia bảo hiểm với những hình thức đa dạng, thủ đoạn tinh vi, trái
với đạo đức xã hội và số tiền thu được từ hành vi gian lận cũng ngày càng lớn.
Chính vì vậy, việc đưa ra định nghĩa và thống nhất quan điểm về gian lận BHNT
có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng chống gian lận BHNT hiện nay.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo từ điển tiếng
Việt của Viện ngôn ngữ học thì gian lận được hiểu là “hành vi dối trá, mánh
khóe, lừa lọc”.[3] Dưới
góc độ pháp lý, hiện nay Luật KDBH hiện hành của Việt Nam chưa có một quy định
chính thức đề cập đến khái niệm gian lận bảo hiểm hay gian lận BHNT. Nỗ lực của
nhà làm luật để truy cứu trách nhiệm hình sự trong gian lận bảo hiểm được tìm
thấy tại Điều 213 - Tội gian lận trong KDBH, tội danh mới được bổ sung trong Bộ
luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, tội danh được quy định theo hướng liệt
kê bao gồm các hành vi: a) Thông đồng với người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để
giải quyết bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật; b) Giả mạo
tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin để từ chối bồi thường, trả tiền bảo hiểm
khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra; c) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông
tin trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm; d) Tự gây thiệt hại về
tài sản, sức khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm.[4] Tội danh gian lận này hướng
đến những hành vi bất hợp pháp nhằm mục đích chiếm đoạt số tiền bảo hiểm từ
DNBH, hoặc thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm không chính đáng trong giai đoạn sau
khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Tuy nhiên, hành vi gian lận trong bảo hiểm có
thể xảy ra ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng
hay khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, hoặc khi tiến hành yêu cầu bồi thường, mà
chủ thể tiến hành nhằm tìm kiếm lợi ích bất hợp pháp khi tham gia vào quan hệ
bảo hiểm (chủ thể có thể là người mua bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ
hưởng, DNBH, thậm chí có thể là hành vi gian lận của đại lý bảo hiểm và doanh nghiệp
môi giới bảo hiểm). Vậy, những hành vi gian lận xảy ra liên quan đến các nghĩa
vụ pháp lý ràng buộc ở giai đoạn tiền hợp đồng, giai đoạn trước khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm, hay giai đoạn giải quyết khiếu nại bồi thường có khả năng không
bị truy cứu trách nhiệm hình sự, liệu có cần phải áp dụng các chế tài pháp lý
cần thiết khác để ngăn ngừa các hành vi này?
Trước đây, thuật ngữ trục lợi bảo hiểm đã xuất
hiện trong văn bản dưới luật trong lĩnh vực bảo hiểm cũng hướng đến các hành vi
lừa dối, mang tính chất cố ý, nhằm thu lợi bất chính, có ý nghĩa khá gần gũi
với gian lận bảo hiểm. Khoản 4 Mục V Thông tư 31/2004/TT-BTC[5]
của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 118/2003/NĐ-CP về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực KDBH quy định: “Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố ý lừa dối của tổ chức,
cá nhân nhằm thu lợi bất chính khi tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm,
trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu nại bảo hiểm”. Tiếc rằng, khái niệm về “trục lợi bảo hiểm” không
được tiếp tục đề cập trong các văn bản pháp luật về bảo hiểm hiện đang có hiệu
lực. Văn bản dưới luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực KDBH hiện hành cũng thiếu vắng đề cập khái niệm “gian lận” bảo hiểm mà
đề cập thẳng chế tài xử phạt đối với hành vi gian dối, giả mạo tài liệu trong
hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm.[6]
Như vậy, có thể thấy, pháp luật KDBH hiện hành ở Việt Nam đã hoàn toàn bỏ ngỏ
trong việc quy định khái niệm gian lận bảo hiểm, dẫn đến việc không thống nhất
quan điểm về khái niệm này.
Theo tác giả, xem xét về mục đích của việc gian
lận bảo hiểm: trục lợi cho cá nhân, tổ chức là động cơ thúc đẩy cá
nhân, tổ chức thực hiện hành vi gian lận bảo hiểm nhằm thu lợi không chính
đáng; về tính chất của hành vi: hành vi gian lận được chủ thể thực hiện một
cách cố ý, và có tính chất gian dối nhằm làm cho bên kia tin rằng đấy là sự
thật; về thời điểm xuất hiện: hành vi gian lận có thể xuất hiện ở bất cứ giai
đoạn nào của mối quan hệ bảo hiểm (đàm phán, giao kết hợp đồng bảo hiểm, bồi
thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm, giải quyết khiếu nại bảo hiểm). Tóm lại, có
thể khẳng định gian lận bảo hiểm là
hành vi cố ý gian dối của các chủ thể tham gia vào quan hệ bảo hiểm, nhằm tìm
kiếm một lợi ích vật chất mà lẽ ra mình không được hưởng hoặc nhằm hưởng một lợi
ích vật chất lớn hơn lợi ích mà mình được hưởng một cách hợp pháp.
Từ đó, tác giả đề
xuất khái niệm gian lận trong bảo hiểm nhân
thọ là việc các bên trong quan hệ bảo
hiểm nhân thọ thực hiện các hành vi cố ý, có tính chất gian dối để được hưởng lợi
ích vật chất không hợp pháp khi tiến hành giao kết hợp đồng bảo hiểm,
thực hiện hợp đồng bảo hiểm, yêu cầu bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và
giải quyết khiếu nại bảo hiểm.
1.2. Một số hành vi gian lận trong bảo
hiểm nhân thọ trên thực tiễn
Gian lận trong lĩnh vực BHNT
tại Việt Nam ngày càng phức tạp hơn, thậm chí các chủ thế gian lận còn thông
đồng với những cá nhân khác như: nhân viên y tế, cảnh sát giao thông, những
người làm chứng trong các vụ tổn thất tạo lập hồ sơ yêu cầu bồi thường giả, điển
hình là mua bảo hiểm cho người đã chết rồi hợp thức hóa giấy chứng tử phù hợp
với hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm, tạo lập hiện trường giả của vụ tai nạn, hay
sự kiện tử vong…Việc nhận diện các hành vi gian lận bảo hiểm trong BHNT xảy ra
phổ biến trên thực tiễn là việc cần thiết để tìm kiếm các giải pháp ngăn ngừa,
phát hiện hành vi gian lận, cũng như đề xuất chế tài xử lý phù hợp và kịp thời.
Thứ nhất, hành vi
gian lận khi khai báo không chính xác thông tin yêu cầu bảo hiểm, do tình trạng
thông tin bất cân xứng giữa người mua bảo hiểm và DNBH.[7]
Người mua bảo hiểm luôn có xu hướng cung cấp thông tín theo hướng có lợi cho
mình, với mức phí bảo hiểm thấp nhưng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm thì lại được
hưởng mức chi trả cao. Ví dụ điển hình về cung cấp thông tin không chính xác
như: khai sai về tình trạng bệnh lý, nghề nghiệp, nơi cư trú, độ tuổi của người
được bảo hiểm – các yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến việc đánh giá rủi ro của
DNBH và việc chấp nhận giao kết HĐBH. Đây là hành vi dẫn đến khá nhiều tranh
chấp trong thực tiễn.[8]
Thứ hai, giả mạo hồ sơ,
tài liệu yêu cầu bồi thường nhằm hưởng quyền lợi bảo hiểm hoặc nhận chi trả số
tiền bảo hiểm của DNBH. Hành vi gian lận này có thể bị xử lý hành chính hoặc bị
tuy cứu trách nhiệm hình sự tùy theo mức độ, tính chất của hành vi. Ví dụ: Người
yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm không cung cấp các thông tin về quá trình
điều trị bệnh trước lúc tử vong, kê khai chung chung về nguyên nhân tử vong hay
kê khai sai khác thực tế như: chết do bệnh già, đột tử tại nhà, chết không rõ
nguyên nhân, chết không có ai chứng kiến; hoặc các thông tin về rủi ro xảy ra
và thông tin về quá trình cấp cứu, điều trị không logic giữa các giấy tờ và
chứng từ được cung cấp; hoặc yêu cầu bồi thường cho các rủi ro xảy ra trong
hoàn cảnh đặc biệt: tự ngã, tai nạn xảy ra trong đêm không có mặt của nhân
chứng nào…Hành vi gian lận cũng có thể diễn ra trong trường hợp sau khi sự kiện
bảo hiểm xảy ra gây thiệt hại như người đã bị tử vong, thương tật mới tham gia
bảo hiểm, trong trường hợp này, người tham gia bảo hiểm có thể cấu kết với nhân
viên giám định, bác sĩ, cơ sở khám, chữa bệnh hoặc người làm chứng khai khống.
Hoặc trường hợp người được bảo hiểm dù tử vong trên giường bệnh nhưng vẫn có
chứng từ xác nhận người được bảo hiểm tử vong do tai nạn giao thông để được
hưởng quyền lợi bảo hiểm hỗ trợ cao hơn đang xảy ra khá phổ biến tại Việt Nam,
từ đó làm nảy sinh những vấn đề không lành mạnh trong đánh giá rủi ro, giám
định bồi thường.[9]
Thứ ba, người được bảo
hiểm dàn dựng hiện trường giả, hoặc thậm chí cố ý tự gây thiệt hại về tính mạng
của mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm, hay giết người khác, dàn dựng hiện trường
giả. Gần đây, tại tỉnh Đắk Nông, có một vụ án giết người đốt xác mục đích trục
lợi tiền bảo hiểm đặc biệt nghiêm trọng, trong đó người được bảo hiểm lên kế
hoạch gồm: đầu tiên là đi đào mộ tìm xác người để ngụy tạo hiện trường giả
nhưng bị thất bại; nên sau đó sát hại anh Trần Nho Vương, là em họ bên vợ của
Minh, rồi đốt xác thế thân với âm mưu trục lợi số tiền bảo hiểm.[10]
2. Kiến nghị một số giải
pháp chống gian lận bảo hiểm nhân thọ
2.1.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật đối với các chế tài xử lý hành vi gian lận bảo
hiểm
Nhìn chung, các quy định pháp luật chống gian
lận trong BHNT nói riêng và lĩnh vực bảo hiểm nói chung đã bộc lộ những
điểm bất cập chưa phù hợp với tình hình gian lận BHNT diễn ra ngày càng
phức tạp, đa dạng trong thực tiễn. Cụ thể, kể từ khi tội gian lận trong KDBH
được ban hành đến nay, chưa có ghi nhận nào về trường hợp Tòa án quyết định kết
tội gian lận trong KDBH trong những vụ việc gian lận trong lĩnh vực BHNT nói
riêng và KDBH nói chung. Đồng thời, các chế tài dân sự do Luật KDBH đặt ra liên
quan đến việc gian lận khai báo thông tin, hay cung cấp thông tin của phía BMBH
trong quá trình thực hiện HĐBH hay khi lập hồ sơ giả yêu cầu bồi thường chưa
được quy định rõ ràng, và chưa tạo cơ chế linh hoạt cho các bên trong quan hệ
bảo hiểm xử lý tình huống gian lận một cách thỏa đáng. Do đó, một số giải pháp
sau đây được đề xuất nhằm tăng tính khả thi của các chế tài xử lý hành vi gian
lận bảo hiểm trong suốt các giai đoạn của việc giao kết và thực hiện hợp đồng
BHNT.
Thứ nhất, đối với hành vi gian lận khi khai báo thông tin yêu cầu
bảo hiểm ở giai đoạn tiền hợp đồng, hay gian lận trong việc thực hiện các quy
định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên trong quá trình thực hiện yêu cầu bồi thường,
văn bản luật cần sửa đổi lại các chế tài phù hợp, tránh sự chồng chéo không rõ
ràng như hiện tại.
Cụ thể là cần có sự phân biệt rõ giữa hành
vi lừa dối tại điểm d, khoản 1 Điều 22 Luật KDBH với hành vi cố ý cung
cấp thông tin sai sự thật tại điểm a, khoản 2 Điều 19 Luật KDBH, bởi
tính chất của việc lừa dối và cố ý cung cấp thông tin sai sự thật là tương tự
nhau, tuy nhiên pháp luật hiện hành quy định hậu quả pháp lý của hai hành
vi này là khác nhau. Do đó, để đảm
bảo tính nhất quán quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin nên được
sửa như sau, cụ thể điểm b khoản 2 Điều 18 Luật KDBH bổ sung thành BMBH có
nghĩa vụ: “Kê khai đầy đủ, trung thực mọi
chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo
hiểm theo quy định tại Điều 19 của Luật này”. Và cụ thể hóa trách nhiệm
cung cấp thông tin của BMBH tại Điều 19 của Luật KDBH: Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm phải cung cấp đầy đủ
và chính xác thông tin đã biết hoặc phải biết về đối tượng bảo hiểm cho doanh
nghiệp bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm”.
Để đảm bảo quyền và lợi
ích của các bên tham gia bảo hiểm, cần có những quy định hướng dẫn rõ ràng hơn,
theo hướng quy định linh hoạt các chế tài dân sự theo mức độ vi phạm đối với
nghĩa vụ cung cấp thông tin. Đối với những thông tin được cung cấp bởi BMBH
trước khi giao kết hợp đồng, nếu DNBH chứng minh được những thông tin đó là do
BMBH cố ý cung cấp sai sự thật thì hợp đồng phải được tuyên vô hiệu; nếu việc
cung cấp thông tin sai sự thật sau khi giao kết hợp đồng hay trong quá trình
thực hiện hợp đồng thì nếu DNBH phát hiện được việc này thì DNBH có quyền đơn
phương đình chỉ thực hiện hợp đồng, và chỉ hoàn trả lại một phần phí bảo hiểm
cho khoảng thời gian chưa được bảo hiểm.[11]
Tiếp đến, ở giai đoạn sự kiện bảo hiểm xảy ra,
xuất phát từ mục đích thu lợi bất chính nên việc người tham gia bảo
hiểm vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin cũng trở nên rất phổ biến. Nhưng đây
là một khoảng trống trong Luật KDBH Việt Nam. Tham khảo quy định của Luật Bảo
hiểm năm 1995 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,[12] Luật đã liệt kê những hành
vi gian lận ở giai đoạn này, bao gồm: bịa
đặt về tổn thất hoặc tạo lập hồ sơ giả về sự kiện bảo hiểm; hành vi cố ý gian
lận để gây ra sự kiện bảo hiểm; và phóng đại tổn thất so với thực tế.[13]
Những trường hợp BMBH cố ý gian dối về sự kiện bảo hiểm, tạo lập hồ sơ giả, kê
khai khống mức độ tổn thất so với thực tế đều được xem là các hành vi gian lận.
Luật Bảo hiểm năm
1995 của Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa quy định DNBH có quyền hủy hợp đồng, không giải quyết yêu cầu bảo hiểm và
không hoàn trả phí bảo hiểm do hành vi gian lận của người tham gia bảo hiểm.[14] Khi
xảy ra sự kiện được bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc
người thụ hưởng bịa đặt một lý do sai dẫn đến sự kiện bảo hiểm hoặc phóng đại
mức độ thiệt hại bằng cách sử dụng bằng chứng giả mạo hoặc thay đổi hoặc tài
liệu hoặc bằng chứng khác, thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm
bồi thường hoặc thanh toán tiền bảo hiểm cho phần bịa đặt của yêu cầu bồi
thường.
Một khi DNBH chứng minh được hành vi gian lận
của người tham gia bảo hiểm thì có quyền hủy hợp đồng, không chi trả số tiền
bảo hiểm mà không nhất thiết phải yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, quy
định này đã tạo ra một cơ chế xử lý linh hoạt cho DNBH, giúp giảm thiểu sự tốn
kém về thời gian và chi phí tố tụng có thể phát sinh, đồng thời quy định trên
cũng xem xét đến mức độ tương xứng của sự vi phạm và chế tài khi chỉ xem xét
loại trừ việc chi trả cho những phần yêu cầu bồi thường quá mức, phóng đại hay
không có căn cứ chứ không miễn hoàn toàn nghĩa vụ bồi thường và chi trả số tiền
bảo hiểm. Ngoài ra, nếu như BMBH, người được bảo hiểm, người thụ hưởng thực
hiện bất kỳ hành vi gian lận nào nêu trên và dẫn đến việc được DNBH thanh toán
tiền bảo hiểm, thì khi DNBH phát hiện hành vi vi phạm này, người thụ hưởng có
trách nhiệm hoàn trả lại số tiền đó cho DNBH.[15] Do đó, Luật KDBH Việt Nam
cần xem xét bổ sung các tình huống gian lận ở giai đoạn sự kiện bảo hiểm xảy ra
cũng như xây dựng chế tài pháp lý tương ứng.
Thứ hai, cần có sự sửa đổi, bổ sung đối với quy định về chế tài
hành chính cho các hành vi gian lận trong BHNT và tăng mức xử phạt cao hơn mức
quy định hiện tại để tạo tính răn đe và phòng ngừa. Nhằm khắc phục việc chưa
bao quát được hết hành vi gian lận bảo hiểm và đối tượng bảo hiểm trên thực
tiễn, pháp luật cần bổ sung thêm quy định xử lý đối với hành vi gian lận như
giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm,
trong giai đoạn thực hiện BHNT. Đồng thời cần tăng mức xử phạt vi phạm hành
chính lên nhiều lần để tương xứng với mức độ thiệt hại mà xã hội, và các chủ
thể trong quan hệ bảo hiểm phải gánh chịu vì các đối tượng gian lận thường nhắm
đến số tiền bảo hiểm lên đến hàng chục tỷ đồng, và công tác điều tra, xác minh
hành vi vi phạm gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, đối với chế tài hình sự, cần sửa đổi quy định để đảm bảo
trong hoạt động xét xử đối với hành vi gian lận bảo hiểm đúng tội, đúng người.
Cần cụ thể hóa tội gian lận bảo hiểm là tội “chưa đạt về mục đích - chưa nhận
lợi ích vật chất, tiền,... nhưng đã hoàn thành về hành vi gian lận,
không kê khai trung thực, đánh tráo tài sản nhằm trục lợi, tạo dựng
hiện trường giả, lập hồ sơ khống, lập hồ sơ không trung thực... ”
phải chịu trách nhiệm hình sự.[16] Việc quy định như vậy để xử
lý hiệu quả đối với hành vi gian lận trong lĩnh vực KDBH có những đặc thù nhất
định, xuất hiện nhiều hình thức vi phạm khác nhau, với mức độ phổ biến, không
ngừng gia tăng về số lượng vi phạm và mức độ gây ra thiệt hại. Đồng thời tránh
tình trạng có luật quy định nhưng trên thực tế không áp dụng được, không có
hình phạt thích đáng cho những kẻ lợi dụng các kẽ hở của pháp luật để thu lợi
bất chính.
2.2.
Giải pháp thành lập cơ quan chuyên trách giám
sát, ngăn ngừa gian lận bảo hiểm
Song song với việc hoàn thiện pháp luật về chế
tài xử lý hành vi gian lận BHNT, thì việc thành lập cơ quan chuyên trách phòng
chống gian lận bảo hiểm là vấn đề đáng được quan tâm.
Có thể kể đến như Cục phòng chống tội phạm bảo
hiểm, The Insurance Crime Prevention Bureau, của Canada được thành lập rất sớm
vào năm 1973, chuyên điều tra các yêu cầu gian lận bảo hiểm và cung cấp thông
tin ngăn ngừa tổn thất trong bảo hiểm.[17] Ở Canada, công cuộc phòng
chống gian lận bảo hiểm không những được sự quan tâm của tổ chức nhà nước, các
DNBH mà còn được sự hỗ trợ, giúp đỡ từ các tổ chức xã hội, tổ chức phi lợi
nhuận tư nhân với mục tiêu ngăn chặn tội phạm bảo hiểm, các tổ chức này đã tự
nguyện đứng ra giúp các DNBH đấu tranh ngăn ngừa gian lận bảo hiểm. Điển hình
là Liên đoàn các tổ chức chống gian lận bảo hiểm được thành lập vào năm 1994 ở
Canada, bao gồm các tổ chức chống tội phạm, các công ty bảo hiểm, cảnh sát,
luật sư và khách hàng. Liên đoàn các tổ chức chống gian lận bảo hiểm đã đưa ra
các hướng dẫn cụ thể cho các DNBH về các biện pháp đấu tranh chống tội phạm bảo
hiểm. Hay Hiệp hội các nhà đại lý BHNT ở Canada cũng là một mô hình tự quản có
vai trò quản lý, giám sát các đại lý BHNT bằng các hoạt động như: đưa ra các
quy định, quy tắc, chuẩn mực hoạt động và đạo đức cho các nhà đại lý bảo hiểm
trên toàn lãnh thổ quốc gia. Hầu hết các nội dung của công tác quản lý, giám
sát đại lý bảo hiểm từ việc cấp phép hoạt động, tiêu chuẩn năng lực, chuyên môn
nghiệp vụ, quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin một cách công khai minh bạch
với khách hàng, đảm bảo quyền lợi và tài sản của khách hàng... đều được hiệp
hội ban hành. Các quy định đều được ra đời dựa trên cơ chế tự nguyện và đồng
thuận nên đã tạo cơ sở, tiền đề cho việc triển khai, tuân thủ thực hiện các
nguyên tắc, chuẩn mực, quy định được chấp nhận chung. Chính hiệp hội này sẽ
thiết lập cơ chế quản lý, giám sát riêng để đảm bảo các đại lý tuân thủ, thực
hiện đầy đủ, hoạt động phù hợp với quy định, quy tắc và chuẩn mực. Có thể thấy
rằng, các tổ chứng phòng chống gian lận bảo hiểm ở Canada là một trong các mô
hình mang tính cộng đồng và tính xã hội rất cao. Nhờ vậy mà giảm bớt gánh nặng
của cơ quan quản lý nhà nước của Canada, bởi sự can thiệp của cơ quan quản lý
nhà nước về bảo hiểm chỉ dừng lại ở việc tham gia, cho ý kiến đối với các quy
định, quy tắc, chuẩn mực mà các hiệp hội ban hành. Sự giám sát, kiểm tra của cơ
quan quản lý nhà nước đối với thị trường bảo hiểm được thực hiện song song với
việc tự giám sát, kiểm tra của hiệp hội nên đã góp phần ổn định, đảm bảo tính lành
mạnh và tăng hiệu quả trong lĩnh vực KDBH.
Tại Vương quốc Anh,
trong đầu những năm 1970, 1980 đã tồn tại sự bất mãn đáng kể của xã hội đối với
hệ thống điều tra và truy tố gian lận bảo hiểm nghiêm trọng, phức tạp tại nước
này. Do đó, vào năm 1988 văn phòng chống trục lợi bảo hiểm nghiêm trọng, The
Serious Fraud Office (SFO) được thành lập, cho đến nay, là cơ quan truy tố
chuyên trách giải quyết các hành vi gian lận nghiêm trọng hoặc phức tạp nước
này.[18] Với
việc sử dụng công nghệ tiên tiến trong việc điều tra và truy tố, tập trung lực
lượng điều tra viên và luật sư trong lĩnh vực gian lận bảo hiểm có trình độ,
giàu kinh nghiệm, khả năng phá án tốt, SFO đã trở thành cánh tay đắc lực cho
các hãng bảo hiểm Anh trong việc truy tố tội phạm gian lận bảo hiểm.
Hầu hết các hành vi gian lận trong BHNT thường
do DNBH phát hiện, nhưng trong số đó có trường hợp bị phát hiện nhưng lại không
bị xử lý, mà còn được DNBH chấp nhận chi trả bảo hiểm. Một phần là do công tác
thu thập, chứng minh người tham gia bảo hiểm có hành vi cố ý khai sai thông
tin, tự gây thiệt hại về sức khỏe của mình, hay cấu kết với các bên liên quan
để được hưởng quyền lợi bảo hiểm là rất khó khăn, nhất là khi DNBH không có sự
hỗ trợ cần thiết từ phía người dân, các cơ quan nhà nước. Đồng thời, hiện nay,
không có cơ sở dữ liệu chung về khách hàng, những trường hợp gian lận bảo hiểm
nên các DNBH thường không thể chia sẻ thông tin với nhau. Hơn nữa, nhiều DNBH
sợ quá trình kiện tụng về các hành vi gian lận bảo hiểm sẽ ảnh hưởng đến uy tín
của mình hoặc chi phí bỏ ra sẽ tốn kém hơn. Chính vì vậy, nhiều vụ gian lận
trong BHNT xảy ra mà không có sự giải quyết hợp lý, từ đó gây thiệt hại cho
nhiều DNBH và giảm niềm tin của người dân đối với BHNT, cũng như tạo một tiền
lệ không tốt cho việc phát hiện và xử lý các hành vi gian lận bảo hiểm. Do vậy,
sự can thiệp của cơ quan quản lý nhà nước bằng việc thành lập một cơ quan chống
gian lận bảo hiểm là thực sự cần thiết và cấp thiết. Việc thành lập cơ quan
chống gian lận bảo hiểm sẽ là một giải pháp hiệu quả trong công tác phòng chống
gian lận bảo hiểm và tạo tính an toàn, lành mạnh trong môi trường KDBH tại Việt
Nam. Cụ thể, cơ quan này sẽ trực thuộc sự quản lý của Cục Quản lý, giám sát bảo
hiểm thuộc Bộ Tài chính, với chức năng như sau:
Một là, cơ quan chống gian lận bảo hiểm sẽ thực hiện việc tiếp
nhận, xử lý các thông tin có liên quan đến gian lận bảo hiểm. Đồng thời, cơ
quan này có các hoạt động, hỗ trợ DNBH điều tra, giải quyết các vụ việc nghi
ngờ có gian lận bảo hiểm. Thông qua sự hợp tác chặt chẽ giữa DNBH với cơ quan
nhà nước này, các hành vi gian lận bảo hiểm có thể phát hiện và xử lý nghiêm,
tạo tính răn đe cho xã hội.
Hai là, cơ quan chống gian lận bảo hiểm thiết lập các cơ chế để
ngăn ngừa hành vi gian lận bảo hiểm như: Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về
thông tin khách hàng, trường hợp khách hàng bị DNBH phát hiện và từ chối bảo
hiểm do có hành vi gian lận khi tham gia bảo hiểm; cập nhật các hình thức cũng
như biểu hiện mới xuất hiện của hành vi gian lận bảo hiểm; cập nhật những quyết
định, cách thức giải quyết, xử lý của Tòa án về các vụ gian lận bảo hiểm; cũng
như chia sẻ kinh nghiệm trong việc xử lý gian lận bảo hiểm.
Ba là, cơ quan chống
gian lận bảo hiểm có vai trò cung cấp những thông tin chính xác, trung thực về
tình hình gian lận bảo hiểm diễn ra trên thực tiễn. Bằng hình thức tuyên truyền
như vậy, người dân sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận những thông tin hữu ích, từ đó
nâng cao nhận thức xã hội về tội gian lận bảo hiểm cả trong BHNT và KDBH. Ngoài
ra, để công tác phát hiện, ngăn chặn hành vi gian lận bảo hiểm trở nên hiệu
quả. Cơ quan có thể cung cấp phần thưởng khuyến khích người dân báo cáo, tố
giác, cung cấp thông tin hữu ích trong việc điều tra, truy tố tội phạm gian lận
bảo hiểm. Việc làm này không chỉ giúp DNBH, cơ quan quản lý, tòa án phát hiện,
xử lý kịp thời, làm giảm thời gian cũng như chi phí khi điều tra một vụ việc có
dấu hiệu tội phạm gian lận bảo hiểm, mà còn nâng cao ý thức của người dân rằng
tội phạm gian lận bảo hiểm là thực sự nguy hại, có thể chịu sự trừng phạt
nghiêm khắc của pháp luật, qua đó góp phần làm giảm số lượng hành vi gian lận
trên thực tiễn.
Tóm lại, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật từ việc
xây dựng cách hiểu có hệ thống về khái niệm gian lận bảo hiểm bao gồm cả trong
lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, nhận diện hành vi gian lận trên thực tiễn và thực
hiện các giải pháp khuyến nghị hoàn thiện chế tài xử lý vi phạm, xây dựng thiết
chế chuyên giám sát, xử lý các hành vi gian lận BHNT là những vấn đề quan
trọng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ bảo hiểm,
ngăn ngừa động cơ và các ý đồ gian lận của các chủ thể tham gia bảo hiểm, và xử
lý hiệu quả, kịp thời các hành vi gian lận bảo hiểm. Từ đó, hoạt động của thị
trường bảo hiểm Việt Nam sẽ trở nên lành mạnh và phát triển bền vững, và có
đóng góp tích cực cho nền kinh tế của Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bộ nguyên tắc của Luật
hợp đồng bảo hiểm châu Âu năm 2009.
2.
Bộ
luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
3.
Luật Kinh doanh bảo
hiểm 2000, sửa đổi bổ sung 2010, và 2019.
4.
Luật Bảo hiểm năm
1995, sửa đổi năm 2002, 2009, 2014, 2015 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
5.
Bạch
Thị Nhã Nam, Trách nhiệm cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm giai đoạn
tiền hợp đồng, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,
Luật học, Vol. 36, Số 3 (2020) tr.74-84.
6.
Doãn Hồng Nhung, “Một
số ý kiến hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn trục lợi
bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, số 3/2014, tr.39.
7.
Đỗ Văn Đại, “Một số
vấn đề pháp lý phát sinh trong thực tiễn về bảo hiểm”, Tạp chí khoa học pháp lý số 7-2018, tr.53-62.
[1] Bộ nguyên tắc của Luật hợp đồng bảo hiểm
châu Âu năm 2009. Nguyên văn xem tại: https://www.uibk.ac.at/zivilrecht/forschung/evip/restatement/sprachfassungen/peicl-en.pdf,
truy cập ngày 20/5/2021.
“Life insurance is an
insurance in which the obligation of the insurer or the payment of premium
depends upon an insured event that is defined exclusively by reference to the
death or survival of the person at risk”.
[2] Khoản 1 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm
2000, sửa đổi bổ sung 2010, và 2019 (Luật KDBH)
[3] Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, NXB. Đà Nẵng, 2003,
tr.390.
[4] Điều 213 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ
sung 2017 quy định Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm.
[5] Văn bản pháp luật này đã
hết hiệu lực vào 01/07/2016.
[6]
Xem Điều 14, Nghị định số 98/2013/NĐ-CP về xử phạt đối với hành vi vi phạm
các quy định về bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm. Nghị định số 98/2013/NĐ-CP ngày 28 tháng 8 năm 2013 của
Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm, kinh doanh xổ số đối với hành vi gian lận bảo hiểm được sửa đổi, bổ
sung năm 2018, 2019
[7]
Xem thêm Bạch Thị Nhã Nam, Trách nhiệm cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo
hiểm giai đoạn tiền hợp đồng, Tạp chí
Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Vol. 36, Số 3 (2020) tr 74-84, truy cập tại: https://js.vnu.edu.vn/LS/article/view/4303.
[8] Xem ví dụ tại Bản án 688/2018/DS-PT ngày 18/7/2018 của Tòa án
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm. Trong tranh
chấp này, người được bảo hiểm - bà N
khai không có gì bất thường về sức khỏe và không đề cập gì về việc điều trị suy
thận mãn giai đoạn cuối, bà cũng trả
lời không mắc bệnh cao huyết áp hoặc bệnh thận, mặc dù bà đã điều trị căn bệnh
này, trong đơn yêu cầu bảo hiểm của bà
N đều xác định bà không có bệnh cao huyết áp hay bệnh thận mặc dù bà bị bệnh
suy thận mãn mới điều trị.
[9] Xem thêm Báo Thanh Niên,
“Trục lợi bảo hiểm: Mua bảo hiểm cho người đã… chết”, https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/truc-loi-bao-hiem-mua-bao-hiem-cho-nguoi-da-chet-620349.html,
truy cập ngày 20/5/2021.
[10] Trang thông tin điện tử Tòa
án nhân dân tỉnh Đăk Nông, “Tòa án nhân dân xét xử sơ thẩm vụ án Đỗ Văn Minh -
giết người, đốt xác”, https://daknong.toaan.gov.vn/webcenter/portal/daknong/chitiettin?dDocName=TAND157756,
truy cập ngày 20/5/2021.
[11] Đỗ Văn Đại, “Một số vấn đề pháp lý phát
sinh trong thực tiễn về bảo hiểm”, Tạp
chí khoa học pháp lý, số 7-2018, tr.53-62.
[12] Luật Bảo hiểm năm 1995, sửa đổi năm 2002,
2009, 2014, 2015 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Nguyên văn xem tại: http://www.cmac.org.cn/wp-content/uploads/2018/08/Insurance-Law-of-the-People%E2%80%99s-Republic-of-ChinaRevision-2015.pdf,
truy cập ngày 20/5/2021.
[13] Điều 27 Luật Bảo hiểm năm 1995 , sửa đổi
năm 2002, 2009, 2014, 2015 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. “Where an insured event has not occurred but
the insured party or the beneficiary claimed falsely that an insured event has
occurred and made a claim for compensation or payment of insurance monies to
the insurer, the insurer shall have the right to rescind the contract, and the
premium shall not be refunded.
Where the policyholder or
the insured party intentionally creates an insured event, the insurer shall
have the right to rescind the contract, and shall not be liable to make
compensation or payment of insurance monies; except where stipulated in Article
43 of this Law, the premium shall not be refunded.
Upon occurrence of an
insured event, where the policyholder, the insured party or the beneficiary
fabricates a false reason for the event or exaggerates the extent of damages
using forged or altered proof or materials or other evidence, the insurer shall
not be liable to make compensation or payment of insurance monies for the
fabricated part of the claim.
Where the policyholder, the
insured party or the beneficiary has committed any of the acts stipulated in
the three preceding paragraphs and resulted in payment of insurance monies or
expenses by the insurer, the policyholder, the insured party or the beneficiary
shall return the monies or make compensation.”
[14] Điều 27 Luật Bảo hiểm năm 1995 , sửa đổi
năm 2002, 2009, 2014, 2015 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
[15]
Điều 27 Luật Bảo hiểm năm 1995 , sửa đổi năm 2002, 2009, 2014, 2015 của
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
[16] Doãn Hồng Nhung, “Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về
phòng ngừa, ngăn chặn trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm ở
Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN:
Luật học, số 3/2014, tr.39.
[17] The Insurance Crime Prevention Bureau: “A Canada wide organization supported by property and casualty insurers
which investigates fraudulent insurance claims and provides loss prevention
information”. Trang web chính thức truy cập tại: https://www.biis.ca/glossary/insurance-crime-prevention-bureau-c-p-b/, truy cập ngày 20/05/2021.
[18] Trang web chính thức của Serious Fraud Office: https://www.sfo.gov.uk/, truy cập ngày 20/5/2021.
NGUỒN: Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 14 (438), tháng 7/2021.)
http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210878
Nhận xét
Đăng nhận xét