HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHOẢN LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM TRONG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM

 

HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHOẢN LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM TRONG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM

Bạch Thị Nhã Nam

Giảng viên Trường đại học Kinh tế - luật, Đại học QG TPHCM, NCS Đại học Griffith, Úc

Email: nambtn@uel.edu.vn

 

Tóm tắt: Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm là một điều khoản bắt buộc phải có trong hợp đồng bảo hiểm theo pháp luật bảo hiểm Việt Nam. Điều khoản loại trừ trách nhiệm quy định về những trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi thường thiệt hại hoặc trả tiền bảo hiểm mặc dù xảy ra sự kiện bảo hiểm. Bài viết phân tích ý nghĩa về sự cần thiết việc xây dựng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm, và rà soát khung pháp luật hiện hành quy định về các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trên cơ sở đối chiếu với thực tiễn giao kết hợp đồng và thông lệ của thị trường bảo hiểm. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị hoàn thiện pháp luật bảo hiểm hiện hành về điều khoản loại trừ trách nhiệm.

Từ khóa: bảo hiểm, điều khoản, loại trừ, trách nhiệm…

 

Abstract:

The insurance liability exclusion clause is a mandatory provision in the insurance contract under the insurance law of Vietnam. The liability exclusion clause provides for cases where the insurer is excluded from paying for loss or damages after the occurrence of the insured event. The article analyzes the need of designing an insurance exclusion clause in an insurance contract, and reviews the current legal framework on the basis of compared with the insurance practice and the popular regulations in the insurance market. Given such analysis, the article proposes recommendations to improve the current insurance law on the liability exclusion clause.

Keywords: insurance, clause, exclusion, liability…

 

1.   Mục đích thiết kế điều khoản loại trừ trách nhiệm trong hợp đồng bảo hiểm

Một điều khoản miễn trừ trách nhiệm (exclusion clause) được định nghĩa là “một điều khoản, trong hợp đồng hay trong thông báo, miễn trừ hay hạn chế trách nhiệm theo luật định của một bên[1]. Thông thường, các điều khoản miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng là điều khoản miễn trừ trách nhiệm cho một bên đối với các hành vi của bên này trừ những hành vi vi phạm cố ý hoặc bất cẩn nghiêm trọng”[2]. 

Không giống như điều khoản loại trừ hoặc miễn trừ trách nhiệm trong các hợp đồng thông thường, điều khoản loại trừ trách nhiệm trong hợp đồng bảo hiểm thường không được thiết kế để loại trừ, hạn chế hoặc giới hạn trách nhiệm pháp lý của một bên do hành vi của bên đó.[3] Thay vào đó, điều khoản loại trừ trách nhiệm trong hợp đồng bảo hiểm xác định những trường hợp sẽ không được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm, giúp đinh rõ ranh giới giữa rủi ro được bảo hiểm và rủi ro không được bảo hiểm. Nói một cách khác, các điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm thường được sử dụng như một công cụ để thu hẹp phạm vi bảo hiểm được cung cấp theo hợp đồng bảo hiểm. Xét về nguyên tắc, doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) phải thực hiện bồi thường thiệt hại hoặc chi trả tiền cho người được bảo hiểm, người thụ hưởng khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, tuy nhiên DNBH không thực hiện nghĩa vụ chi trả bảo hiểm hoặc bồi thường khi sự kiện bảo hiểm xảy ra thuộc vào các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm được xây dựng trong hợp đồng bảo hiểm.

Theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam (KDBH) hiện hành, điều khoản loại trừ trách nhiệm (LTTN) là những điều khoản quy định rõ trong hợp đồng bảo hiểm về những trường hợp DNBH không phải bồi thường thiệt hại hoặc trả tiền bảo hiểm mặc dù xảy ra sự kiện bảo hiểm.[4] Luật KDBH Việt Nam quy định điều khoản loại trừ trách nhiệm là một trong những nội dung bắt buộc trong hợp đồng bảo hiểm[5], do đó điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm không thể thiếu trong các thỏa thuận bảo hiểm được thiết lập giữa bên mua bảo hiểm và DNBH.Vì đây là điều khoản làm thu hẹp phạm vi bảo hiểm trong hợp đồng, từ đó loại trừ trách nhiệm bảo hiểm của DNBH, do đó điều khoản này phải được DNBH quy định rõ trong hợp đồng bảo hiểm và phải được giải thích rõ cho bên mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng,[6] để bên mua bảo hiểm có thể nẵm rõ các nội dung cơ bản về rủi ro được bảo hiểm, và rủi ro bị loại trừ, hoặc các trường hợp không nhận tiền bảo hiểm hoặc tiền bồi thường dù sự kiện bảo hiểm đã xảy ra.

Hoạt động bảo hiểm mang bản chất là sự hoán chuyển rủi ro từ bên mua bảo hiểm sang cho DNBH trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để DNBH trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.[7] Các điều khoản LTTN bảo hiểm sẽ thu hẹp phạm vi bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm, do đó bên mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, họ sẽ được biết rõ rằng loại rủi ro nào xảy ra sẽ được bồi thường hoặc nhận chi trả tiền bảo hiểm, tương ứng với mức phí bảo hiểm mà họ sẽ đóng cho DNBH. Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm cần dựa trên việc xác định rõ sự kiện bảo hiểm xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm, và không thuộc các trường hợp của điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm để tiến hành yêu cầu DNBH thực hiện nghĩa vụ bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm. Vậy trong bảo hiểm, vì sao các bên cần thiết phải thỏa thuận về điều khoản LTTN bảo hiểm, và DNBH phải thiết kế các điều khoản LTTN bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được quy định là hợp đồng theo mẫu – tức được soạn thảo sẵn bởi phía DNBH[8]?

Mục đích của việc cho phép DNBH thiết kế điều khoản LTTN trong hợp đồng bảo hiểm nhằm bảo vệ các giá trị sau:

Thứ nhất, điều khoản LTTN giúp đảm bảo các giá trị nhân văn, bảo vệ các giá trị đạo đức tốt đẹp của con người ngăn ngừa những hành vi gian lận bảo hiểm của bên mua bảo hiểm bằng những hành vi cố ý gây ra thiệt hại, giả tạo sự kiện bảo hiểm, hoặc hành vi vi phạm pháp luật lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm dẫn đến sự kiện bảo hiểm. Do đó, điều khoản LTTN nhằm bảo vệ lợi ích của DNBH, lợi ích của các khách hàng trung thực đồng thời bảo vệ trật tự của hoạt động kinh doanh bảo hiểm.

Chẳng hạn trong các hợp đồng bảo hiểm vật chất đối với xe ô tô, điều khoản LTTN thường bao gồm các trường hợp vi phạm pháp luật giao thông đường bộ với lỗi cố ý của người lái xe: lái xe điều khiển xe gây tổn thất khi có nồng độ cồn vượt quá quy định của pháp luật hiện hành được kết luận bằng văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc lái xe sử dụng các chất kích thích khác mà pháp luật cấm sử dụng; vận chuyển hàng trái phép; lái xe không có giấy phép lái xe hợp lệ cũng sẽ không được hưởng bảo hiểm; xe chở quá số người theo quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Tham khảo điều khoản bảo hiểm nhân thọ của các DNBH, hầu hết các DNBH đều quy định loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm bị chết do hành vi cố ý của người mua bảo hiểm và/hoặc người thụ hưởng hay do hành động tự tử của người được bảo hiểm trong một giai đoạn nhất định, thường là hai năm kể từ ngày phát hành hợp đồng , hoặc người được bảo hiểm chết do bị kết án và chịu hình phạt tử hình vì đã có hành vi phạm pháp luật hình sự (ví dụ như tội cố ý giết người). Trong trường hợp này, pháp luật bảo hiểm của nhiều nước đều cho phép DNBH quyền từ chối trả tiền bảo hiểm tử vong bởi cái chết của người được bảo hiểm là hậu quả của một hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đi ngược lại chuẩn mực đạo đức xã hội. Ví dụ, đối với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết của Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt[9], DNBH sẽ loại trừ bảo hiểm trong các trường hợp người được bảo hiểm tử vong sau đây: “Tự tử trong thời hạn 2 năm (dù trong tình trạng mất trí hay bình thường) kể từ ngày hiệu lực hợp đồng hoặc hoặc ngày khôi phục hiệu lực hợp đồng hoặc kể từ ngày chấp nhận tăng số tiền bảo hiểm gần nhất, tùy trường hợp này xảy ra sau; hoặc do hành vi cố ý của bên mua bảo hiểm, người nhận quyền lợi bảo hiểm; hoặc nhiễm HIV; bị AIDS hoặc/và những bệnh liên quan đến AIDS (trừ trường hợp nhiễm HIV trong khi đang thực hiện nhiệm vụ tại nơi làm việc như một nhân viên y tế hoặc công an); hoặc do thi hành án tử hình.”

Thứ hai, khi có rủi ro không thể kiểm soát được trên diện rộng cùng với thiệt hại lớn thì việc xây dựng điều khoản loại trừ đảm bảo doanh nghiệp tránh khỏi trường hợp mất khả năng thanh toán. Trong các trường hợp như chiến tranh, nội chiến, bạo động, nổi loạn, sóng thần, đại dịch… đây là những thảm họa, hoặc rủi ro xảy ra diện rộng, mang tính hàng loạt có thể gây ra thiệt hại lớn cho những người tham gia bảo hiểm (tử vong, thương tật…) mà số tiền chi trả quá lớn trong cùng một thời điểm sẽ làm cho doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Vì vậy,DNBH cần phải quy định loại trừ trách nhiệm bảo hiểm đối với trường hợp này nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh, cũng chính là bảo vệ lợi ích chính đáng của khách hàng. Trên thực tế, một số DNBH chấp nhận bảo hiểm cả những thảm hoạ như động đất, núi lửa… khi đó DNBH không thu phí bảo hiểm ở mức độ tỷ lệ rủi ro thông thường, mà gia tăng thêm khoản phí bảo hiểm tương ứng với sự gia tăng các rủi ro thảm hoạ mặc dù những rủi ro mang tính thảm hoạ rất khó dự đoán và định lượng[10].

Thứ ba, đảm bảo sự cân bằng giữa mức phí người mua bảo hiểm đóng và lợi ích được nhận, góp phần giảm thiểu sự bất cân xứng giữa lợi ích của bên mua bảo hiểm và DNBH, và kích thích việc chia sẻ trách nhiệm ngăn ngừa rủi ro giữa bên mua bảo hiểm và DNBH, tránh việc phó thác mọi trách nhiệm bảo hiểm cho DNBH và tránh sự gia tăng thái độ tùy tiện, bất cẩn của phía bên mua bảo hiểm.

Mỗi DNBH sẽ tùy vào việc tính toán thống kê, định lượng rủi ro trong từng sản phẩm bảo hiểm, nghiệp vụ bảo hiểm mà DNBH sẽ loại trừ phạm vi bảo hiểm đã xuất hiện trong loại hình bảo hiểm trong sản phẩm bảo hiểm khác thông dụng trên thị trường, hoặc thu hẹp phạm vi bảo hiểm của sản phẩm bảo hiểm đã có trên thị trường bằng cách liệt kê thêm một số loại trừ bảo hiểm (rủi ro, sự kiện không được bảo hiểm) để hình thành ra sản phẩm bảo hiểm mới (như bảo hiểm tai nạn con người có các điều khoản bảo hiểm về tử vong, tai nạn và điều trị ốm đau, hoặc trong bảo hiểm tài sản loại trừ các thiệt hại gián tiếp như giảm sút giá trị thương mại (khi khắc phục tài sản bị tổn thất), giảm giá, mất thị trường hoặc thiệt hại kinh doanh khi tài sản bị thiệt hại đến khi khắc phục xong.)

Thứ tư, điều khoản LTBH nhằm loại bỏ các trường hợp không phản ánh bản chất của hoạt động bảo hiểm, ví dụ như hoạt động bảo hiểm có mục đích bù đắp tổn thất với người được bảo hiểm trong các trường hợp sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan, mang tính ngẫu nhiên, không thể lường trước được, chứ không phải là những sự kiện thuộc bản chất vốn có của tài sản, hay các sự kiện rủi ro đã xảy ra. Ví dụ loại trừ trách nhiệm bảo hiểm đối với: “Tổn thất do hiện tượng ăn mòn, mài mòn, ôxy hóa, mục rữa, kết tạo vẩy cứng (như han gỉ, đóng cặn hoặc các hiện tượng tương tự khác), khuyết tật của nguyên vật liệu; Tổn thất do hiện tượng ăn mòn, mài mòn, ôxy hóa, khuyết tật của nguyên vật liệu”[11]. Hoặc DNBH được loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong các trường hợp người được bảo hiểm không gánh chịu bất kỳ tổn thất vật chất nào khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng được bảo hiểm vì người được bảo hiểm không có quyền lợi có thể được bảo hiểm với đối tượng được bảo hiểm[12].

Như vậy, trong bất kỳ hợp đồng bảo hiểm nào được giao kết giữa bên mua bảo hiểm và DNBH, trong các sản phẩm bảo hiểm dù là loại hình bảo hiểm mọi rủi ro, DNBH đều được pháp luật cho phép xây dựng các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm (cho các rủi ro hay sự kiện bảo hiểm) nhằm đảm bảo cho các mục đích nêu trên.

2.   Hình thức thể hiện điều khoản loại trừ trách nhiệm trong hợp đồng bảo hiểm

Pháp luật KDBH không can thiệp vào cách sắp xếp, bố trí các điều khoản trong một hợp đồng bảo hiểm, quy tắc sản phẩm bảo hiểm, chỉ quy định hợp đồng bảo hiểm phải đảm bảo đầy đủ các điều khoản được quy định tại Điều 13 Luật KDBH.  Khi xây dựng các điều khoản, quy tắc bảo hiểm, DNBH phải đảm bảo nội dung tuân thủ pháp luật, không trái với thông lệ, đạo đức, văn hóa, phong tục, tập quán Việt Nam. Doanh nghiệp bảo hiểm còn phải sử dụng ngôn ngữ chính xác, diễn đạt đơn giản, dễ hiểu. Các từ ngữ chuyên môn cũng cần được định nghĩa rõ trong quy tắc, điều khoản bảo hiểm.[13]

Đối với các loại hình bảo hiểm bắt buộc, cơ quan có thẩm quyền sẽ ban hành các quy tắc, điều khoản bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu,[14] do đó DNBH kinh doanh các loại hình bảo hiểm bắt buộc phải tuân thủ các quy định được ban hành, không thể tự thiết kế các điều khoản (bao gồm cả điều khoản loại trừ trách nhiệm) trái với quy định trên. DNBH thường thể hiện nhắc lại các quy định của cơ quan có thẩm quyền trong các quy tắc sản phẩm bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm của DNBH đối với loại hình bảo hiểm bắt buộc. Ví dụ về trường hợp cơ quan có thẩm quyền sẽ đưa ra các quy định loại trừ cụ thể trong văn bản pháp luật như: trong Nghị định số 03/2021/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, DNBH không bồi thường thiệt hại trong 8 trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm được quy định tại Điều 13, hoặc Nghị định 119/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng quy định loại trừ trách nhiệm bảo hiểm tại Khoản 2 Điều 6, và được hướng dẫn chi tiết trong Thông tư số 329/2016/TT-BTC do Bộ Tài chính, hoặc Nghị định 23/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định về bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc quy định loại trừ trách nhiệm bảo hiểm tại Khoản 2 Điều 6…

Đối với các loại hình bảo hiểm không bắt buộc, DNBH tự xây dựng nội dung hợp đồng bảo hiểm, quy tắc sản phẩm bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm, biểu phí bảo hiểm và phải đạt được sự phê chuẩn của Bộ Tài chính (bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe), hoặc phải đăng ký với Bộ Tài chính (bảo hiểm xe cơ giới), hoặc không buộc phải đạt được phê chuẩn hay thực hiện thủ tục đăng ký với Bộ Tài chính tùy vào loại hình bảo hiểm DNBH dự kiến kinh doanh (các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ khác). [15]

Thông thường, hợp đồng bảo hiểm được phê chuẩn gồm hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, đơn yêu cầu bảo hiểm, trang hợp đồng, quy tắc, điều khoản sản phẩm bảo hiểm chính, sản phẩm bảo hiểm bổ trợ (nếu có).[16] Các sản phẩm bảo hiểm được phép triển khai bao gồm: Quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm, mẫu hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và các tài liệu có liên quan trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng bảo hiểm phải được công bố công khai trên cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam và doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài.[17] Như vậy, bên mua bảo hiểm (dự kiến) có thể dễ dàng tiếp cận với các nội dung, các điều khoản (bao gồm cả điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm) được thể hiện rõ ràng, công khai trong hợp đồng bảo hiểm, quy tắc, điều khoản của sản phẩm bảo hiểm ngay cả khi không có ý định giao kết hợp đồng bảo hiểm với một DNBH cụ thể.

Điều khoản loại trừ trách nhiệm có thể bao gồm điều khoản loại trừ chung, điều khoản loại trừ đặc thù, các rủi ro không thuộc phạm vi bảo hiểm, đây là các cách thể hiện tiêu đề cho những trường hợp DNBH sẽ không thực hiện chi trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường. Dựa trên quan sát thực tiễn các hợp đồng bảo hiểm, quy tắc, điều khoản bảo hiểm, có hai cách phổ biến để trình bày điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm:

Thứ nhất, tách riêng thành một điều khoản loại trừ bảo hiểm, bao gồm:

- Điều khoản loại trừ chung: được áp dụng chung cho tất cả cá điều kiện bảo hiểm ghi trong quy tắc hoặc hợp đồng bảo hiểm. Ví dụ trong bảo hiểm sức khỏe có điều khoản loại trừ chung có cả các điều khoản bảo hiểm tử vong, bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm ốm đau hoặc trong bảo hiểm vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu có điều khoản loại trừ chung cho tất cả các điều kiện bảo hiểm A, điều kiện bảo hiểm B, điều kiện bảo hiểm C.

- Điều khoản loại trừ riêng cho từng điều kiện bảo hiểm riêng biệt.

Chẳng hạn như trong quy tắc bảo hiểm tự nguyện xe cơ giới của công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (ban hành kèm theo Quyết định số 370/2018/QĐ – PTI ngày 26/12/2018 của Tổng giám đốc Tổng công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện) tại Điều 12 quy định những điểm loại trừ chung, những trường hợp PTI không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại như “Hành động cố ý gây thiệt hại của Chủ xe cơ giới, Lái xe hoặc của người bị thiệt hại hoặc người có quyền lợi liên quan đến sở hữu và khai thác sử dụng xe”. Quy tắc bảo hiểm này còn quy định điều khoản loại trừ riêng đối với bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới, điều khoản loại trừ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với hàng hóa vận chuyển trên xe. Như vậy các điều khoản loại trừ chung sẽ được áp dụng chung cho tất cả các loại bảo hiểm quy định trong quy tắc, đối với mỗi loại bảo hiểm sẽ có thêm từng trường hợp loại trừ riêng.

Thứ hai, thể hiện rải rác nội dung loại trừ bảo hiểm trong các điều khoản, điều kiện bảo hiểm

Cách thể hiện trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm được thể hiện lồng ghép trong các điều khoản, quy định khác như trong điều khoản về định nghĩa khái niệm, hoặc phạm vi bảo hiểm, hoặc nghĩa vụ thông báo sự kiện bảo hiểm xảy ra…

Ví dụ, trong quy định "Định nghĩa" giải thích các thuật ngữ trong hợp đồng bảo hiểm, DNBH xác định ý nghĩa cụ thể cho các thuật ngữ và thu hẹp phạm vi giải thích. Ví dụ: trong một hợp đồng bảo hiểm đối với xe tự động xác định ý nghĩa "tự động": là các phương tiện cơ giới trên bộ, xe kéo hoặc rơ moóc được thiết kế để di chuyển trên đường công cộng. Định nghĩa này loại trừ các thiết bị di động khác.

Hoặc ví dụ tại điều khoản quy định nghĩa vụ thông báo của bên mua bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, “nếu không thông báo tai nạn tổn thất xảy ra cho doanh nghiệp bảo hiểm được biết trong vòng 5 ngày kể từ ngày xảy ra sự kiện trên trừ trường hợp người được bảo hiểm có lý do bất khả kháng về không biết được thời gian xảy ra sự kiện bảo hiểm, DNBH sẽ không bồi thường cho người được bảo hiểm.”

Hoặc ví dụ trong Quy tắc bảo hiểm xe cơ giới, tại điều khoản quy định việc “Thay đổi mục đích sử dụng”: Trong thời hạn của Hợp đồng bảo hiểm, nếu mục đích sử dụng của Xe bị thay đổi, Người Được Bảo Hiểm có nghĩa vụ thông báo cho Công Ty Bảo Hiểm ít nhất là 7 ngày làm việc trước khi diễn ra sự thay đổi đó...Nếu mục đích sử dụng Xe bị thay đổi và Người Được Bảo Hiểm không thông báo cho Công Ty Bảo Hiểm theo quy định của Điều này, Công Ty Bảo Hiểm có quyền từ chối bồi thường theo các quy định của Hợp Đồng Bảo Hiểm này, bao gồm nhưng không giới hạn việc Người Được Bảo Hiểm vi phạm các quy định về cung cấp thông tin theo quy định … và các quy định loại trừ tại Điều 15.”

So với cách quy định riêng biệt, tách riêng thành một điều khoản loại trừ bảo hiểm, việc quy định rải rác trong từng điều khoản của hợp đồng bảo hiểm sẽ khiến bên mua bảo hiểm lưu tâm hơn khi đọc từng nội dung của các điều khoản, để nhận biết rủi ro bị loại trừ, trường hợp không được nhận tiền bồi thường hoặc tiền bảo hiểm.

Lý do thực tế các DNBH quy định rải rác vì DNBH buộc phải áp dụng quy tắc điều khoản điều kiện bảo hiểm sẵn có theo thông lệ quốc tế được đa số các quốc gia trên thế giới áp dụng hoặc trong trường hợp là DNBH gốc, họ buộc phải áp dụng cách diễn đạt loại trừ bảo hiểm y hệt quy tắc điều khoản, điều kiện bảo hiểm của nhà nhận tái bảo hiểm quốc tế mà DNBH gốc đã nhượng một phần trách nhiệm bảo hiểm cho nhà tái bảo hiểm.[18]

Vì các điều khoản loại trừ bảo hiểm là nhằm thu hẹp phạm vi bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nên các điều khoản loại trừ bảo hiểm càng nhiều thì phạm vi được bảo hiểm càng ít. Trong các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, DNBH có thể từ chối chi trả toàn bộ hay chỉ chi trả một phần nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm của mình. Việc gia tăng phạm vi bảo hiểm hoặc thu hẹp phạm vi bảo hiểm sẽ ảnh hưởng đến mức phí bảo hiểm bên mua bảo hiểm sẽ đóng cho DNBH, mức phí bảo hiểm sẽ tăng cao khi phạm vi bảo hiểm rộng, và giảm dần khi phạm vi bảo hiểm bị thu hẹp. Điều này đảm bảo lợi ích cân xứng cho các bên trong quan hệ bảo hiểm, góp phần đảm bảo an toàn tài chính cho DNBH, và thị trường bảo hiểm.

3.   Hạn chế trong các quy định hiện hành về điều khoản loại trừ trách nhiệm và khuyến nghị hoàn thiện

Trong Luật KDBH, hiện có hai điều luật đề cập đến điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm tại Điều 16 về khái niệm và những trường hợp không loại trừ trách nhiệm bảo hiểm và tại Điều 39 về các trường hợp doanh nghiệp không phải trả tiền trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.

Ngoài ra, trong khuôn khổ văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh từng lĩnh vực bảo hiểm, như trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải, Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015 cũng quy định các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm của DNBH tại Điều 325. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm còn được quy định chi tiết trong các văn bản dưới luật ban hành bởi Chính phủ hoặc Bộ Tài Chính cho từng loại hình bảo hiểm bắt buộc.

Nhìn chung khung pháp luật hiện hành về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm được quy định khá toàn diện, từ khái quát đến chi tiết cho các loại hình bảo hiểm bắt buộc, đồng thời nhà làm luật cũng trao không gian tự do cho DNBH chủ động xây dựng nội dung hợp đồng bảo hiểm, quy tắc, điều kiện sản phẩm bảo hiểm đối với các loại hình bảo hiểm không bắt buộc nhưng dưới sự quản lý, giám sát, của Bộ Tài chính (yêu cầu phê chuẩn, yêu cầu đăng ký, và các trường hợp không yêu cầu phê chuẩn và đăng ký). Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện pháp luật, nhiều khuyết điểm, hạn chế từ các quy định hiện tại về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm đã bộc lộ, và có ít nhiều tác động đến các chủ thể tham gia vào quan hệ bảo hiểm.

Thứ nhất, với vai trò là văn bản luật chuyên ngành toàn diện nhất trong lĩnh vực bảo hiểm, Luật KDBH thiếu quy định khái quát về các trường hợp DNBH được phép loại trừ trách nhiệm bảo hiểm. Cụ thể, tại Điều 16 Luật KDBH mới nêu về khái niệm điều khoản loại trừ trách nhiệm và thiếu vắng các quy định hướng dẫn trong các trường hợp nào DNBH có thể chủ động xây dựng điều khoản loại trừ trách nhiệm.

Do đó, để bảo vệ quyền lợi chính đáng của bên mua bảo hiểm, ngăn ngừa DNBH tùy ý xây dựng áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm một cách không hợp lý, các nhà làm luật nên pháp điển hóa các trường hợp khái quát trong Luật KDBH theo hướng quy định rõ các tình huống DNBH được loại trừ trách nhiệm bảo hiểm. Trên thực tiễn giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm thường là bên yếu thế so với DNBH, không có hoặc hạn chế khả năng đàm phán để điều chỉnh nội dung hợp đồng bảo hiểm, trong khi điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm được thiết kế sẵn mang bản chất là một điều khoản làm giảm lợi ích của phía bên mua bảo hiểm. Để tái cân bằng lợi ích của các bên, sự can thiệp của nhà làm luật ở việc quy định khái quát trường hợp nào là trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm sẽ là một quy định cần thiết. Tác giả khuyến nghị bổ sung vào Điều 16, Luật KDBH hiện hành các trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm của DNBH như sau:

“3. Thiệt hại trong các trường hợp sau đây sẽ được loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trừ khi các bên thỏa thuận khác:

-        Có hành vi phạm pháp luật lỗi cố ý từ phía bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng hoặc hành vi cố ý gây thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm dẫn đến sự kiện bảo hiểm thì DNBH được loại trừ trách nhiệm bảo hiểm;

-        Sự kiện bảo hiểm xảy ra mang tính thảm họa, thiệt hại lớn, không thể kiểm soát được trên diện rộng, có nguy cơ khiến DNBH mất khả năng thanh toán: thảm hoạt thiên nhiên gây ra như động đất, sóng thần, núi lửa, lũ, lụt, bão hoặc chiến tranh, nội chiến, bạo động, nổi loạn, thiệt hại do những biến cố về chính trị, an ninh và trật tự an toàn xã hội dẫn đến gây thiệt hại về người và tài sản.[19]

-        Các sự kiện không mang tính khách quan, do bản chất vốn có của đối tượng được bảo hiểm, hoặc thuộc phạm vi bảo hiểm của các sản phẩm bảo hiểm khác đã tồn tại;

-        Các trường hợp thỏa thuận khác giữa DNBH và bên mua bảo hiểm nhằm thu hẹp phạm vi bảo hiểm tương ứng với mức phí bảo hiểm phải đóng”.

Riêng đối với hợp đồng bảo hiểm con người, Khoản 1 Điều 39 Luật KDBH quy định về các trường hợp DNBH không trả tiền bảo hiểm như sau:

a) Người được bảo hiểm chết do tự tử trong thời hạn 2 (hai) năm kể từ ngày nộp khoản phí bảo hiểm đầu tiên hoặc kể từ ngày hợp đồng tiếp tục có hiệu lực;

b) Người được bảo hiểm chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ hưởng;

c) Người được bảo hiểm chết do bị thi hành án tử hình.”

Có thể thấy, những quy định này đều nhằm đảm bảo lợi ích cho DNBH, chống lại các hành vi gian lận bảo hiểm từ phía người được bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, tuy nhiên, quy định này vẫn còn một số điểm chưa hợp lý:

Trước hết, tại điểm b Khoản 1 Điều 39 Luật KDBH mới chỉ dừng lại ở việc quy định trường hợp “người được bảo hiểm chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ hưởng”. Trên thực tế, phạm vi bảo hiểm trong các sản phẩm bảo hiểm con người được các DNBH triển khai hiện nay đều bao gồm các rủi ro: chết, thương tật toàn bộ vĩnh viễn, thương tật bộ phận vĩnh viễn, ốm đau, bệnh tật… Do vậy, quy định trên có thể đã bỏ qua các trường hợp “người được bảo hiểm bị thương tật bộ phận vĩnh viễn, ốm đau, bệnh tật...do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ hưởng”. Do đó, để bao quát được mọi trường hợp thì điểm b Khoản 1 Điều 39 Luật KDBH nên được sửa đổi theo hướng: “rủi ro được bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ hưởng”.

Tiếp đến, theo điểm c Khoản 1 Điều 39 thì DNBH chỉ có thể từ chối trả tiền bảo hiểm trong trường hợp “người được bảo hiểm chết do bị thi hành án tử hình”. Điều này có nghĩa là nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra do người được bảo hiểm có hành vi cố ý vi phạm pháp luật (ngoại trừ trường hợp họ bị thi hành án tử hình) thì DNBH vẫn phải giải quyết quyền lợi bảo hiểm.

Quy định hiện tại có phạm vi hẹp và chưa thể hiện được mục đích của việc xây dựng điều khoản loại trừ trách nhiệm nhằm bảo vệ các lợi ích công cộng, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác được pháp luật bảo vệ. Xem xét các điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trên thị trường Việt Nam hiện nay, quy định loại trừ trách nhiệm bảo hiểm được thiết kế trong tình huống này thường bao gồm các trường hợp: “người được bảo hiểm tham gia vào các hoạt động bất hợp pháp, chống cự khi bị bắt giữ hay vượt ngục”, “người được bảo hiểm có hành động phạm tội”, “hành vi cố ý vi phạm pháp luật của người được bảo hiểm”... Với khung pháp luật hiện hành thì liệu việc DNBH thiết kế điều khoản loại trừ rộng hơn quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 39 Luật KDBH có đảm bảo sự tương thích và phù hợp không? Do đó, để thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển phù hợp với pháp luật, và thông lệ của các nước trên thế giới, nên chăng điểm c Khoản 1 Điều 39 Luật KDBH nên được sửa đổi theo hướng mở rộng các trường hợp dẫn đến sự kiện bảo hiểm do hành vi vi phạm pháp luật lỗi cố ý thì sẽ phù hợp hơn với thực tế khách quan và sự phát triển chung của thị trường bảo hiểm toàn cầu.

Thứ hai, Luật KDBH chưa hoàn thiện ở quy định các trường hợp DNBH không được phép loại trừ trách nhiệm. Cụ thể, tại Khoản 3 Điều 16 Luật KDBH hiện hành còn quy định không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong các trường hợp sau đây:

-   Bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý.

-   Bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện được bảo hiểm.

Hai trường hợp này quy định chung cho các loại hình bảo hiểm, tuy nhiên đối tượng chủ thể được đề cập trong quy định này chỉ có bên mua bảo hiểm. Trong khi đó trong loại hình bảo hiểm con người, còn tồn tại nhiều chủ thể bên cạnh bên mua bảo hiểm là người được bảo hiểm, người thụ hưởng. Trong trường hợp không có sự đồng nhất chủ thể giữa bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm, người thụ hưởng trong bảo hiểm nhân thọ thì có các tình huống người được bảo hiểm, người thụ hưởng vi phạm pháp luật do vô ý có thể không thuộc ngoại lệ của Điều 16. Do đó, đối với nội dung “Bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý”, quy định này nên bổ sung theo hướng không loại trừ bảo hiểm trong trường hợp “Bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng vi phạm pháp luật do vô ý”.

Thứ ba, Luật KDBH nên quy định một thể thức trình bày đối với điều khoản loại trừ trách nhiệm trong hợp đồng bảo hiểm. Hiện tại Luật KDBH yêu cầu điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm phải được quy định rõ trong hợp đồng bảo hiểm, và nghĩa vụ giải thích rõ của DNBH cho bên mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng tại Khoản 2, Điều 16, và Luật KDBH cũng không làm rõ thế nào là “quy định rõ”, và nếu nghĩa vụ “giải thích rõ” của DNBH không được đảm bảo, liệu điều khoản loại trừ trách nhiệm có hiệu lực hay không?

Vì điều khoản loại trừ trách nhiệm là những điều khoản làm giảm lợi ích được bảo hiểm của bên mua bảo hiểm, giảm đi trách nhiệm của DNBH trong quan hệ bảo hiểm, do đó đây là loại điều khoản có thể mang lại những bất lợi nhất định cho phía bên mua bảo hiểm. Điều khoản loại trừ trách nhiệm phải được xem là điều khoản “bất thường”, nó không thể được đưa vào hợp đồng một cách “bình thường”, mà phải được ghi chữ in đậm hay viết hoa để bên không soạn hợp đồng khỏi nhận sự bất công do thiếu kinh nghiệm khi đọc hợp đồng[20].

Ngoài ra, đối với các hợp đồng bảo hiểm được soạn sẵn bởi DNBH, và bên mua bảo hiểm khó có cơ hội đàm phán điều chỉnh hợp đồng bảo hiểm, các các văn bản khác được xem là thành phần của hợp đồng bảo hiểm như quy tắc sản phẩm bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm…, nguyên tắc giải thích các điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm phải tuân thủ việc giải thích có lợi cho bên yếu thế là bên mua bảo hiểm, giải thích chống lại nhà soạn thảo đối với các điều khoản loại trừ trách nhiệm “không rõ nghĩa”, mơ hồ.[21] Cách giải thích theo cách bất lợi cho nhà soạn thảo hợp đồng vẫn được áp dụng ở nhiều nền tư pháp trong cả hệ thống dân luật và thông luật.[22]

Ngoài ra, trong việc xem xét tính hiệu lực của các điều khoản này, có thể tham khảo trích dẫn Điều 2.20 trong Những nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT (Principles of International Commercial Contracts): “Một điều khoản bất ngờ trong hợp đồng soạn sẵn không được phía bên kia lường trước trong giới hạn hiểu biết của mình, sẽ không có hiệu lực, trừ trường hợp được bên kia chấp nhận một cách rõ ràng[23].

Luật bảo hiểm của Trung Quốc 1995, sửa đổi vào 2002 cũng có cách tiếp cận tương tự, Điều 18 của Luật này quy định: “Trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm quy định những điều khoản loại trừ trong hợp đồng bảo hiểm thì khi giao kết hợp đồng bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm phải giải thích chính xác, rõ ràng những điều khoản đó cho bên mua bảo hiểm, nếu không những điều khoản đó không có hiệu lực.[24]

Như vậy, trong trường hợp các điều khoản loại trừ trách nhiệm được thể hiện trong hợp đồng bảo hiểm, nhưng DNBH không thực hiện nghĩa vụ giải thích rõ, hoặc thông báo cho người được bảo hiểm về những trường hợp người được bảo hiểm sẽ không nhận tiền bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm, thì các điều khoản loại trừ trách nhiệm không phát sinh hiệu lực, không được áp dụng trong quan hệ bảo hiểm giữa các bên.

Luật KDBH Việt Nam nên cân nhắc bổ sung rõ tính hiệu lực của điều khoản loại trừ trách nhiệm trong các trường hợp có sự vi phạm nghĩa vụ từ phía DNBH để nâng cao ý thức của phía DNBH trong quá trình giao kết hợp đồng bảo hiểm, và bảo vệ tốt hơn quyền lợi của bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.               Bộ luật Dân sự 2015

2.               Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam 2000, sửa đổi bổ sung 2010 và 2019.

3.               Luật bảo hiểm của Trung Quốc 1995, sửa đổi 2002.

4.               Nghị định 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.

5.               Nghị định số 119/2015/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng.

6.               Quyết định 35/2015/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung QĐ 02/2012/QĐ-TTg về việc ban hành danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung.

7.               Bùi Thị Hằng Nga, Bạch Thị Nhã Nam, Pháp luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam, 2019, Nxb. Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh.

8.               Phí Thị Quỳnh Nga, Những bất cập của điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong Luật Kinh doanh bảo hiểm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10/2006.

9.               Steven H. Gifis , Baron’s Law Dictionary, sixth edition, 2010, Baron’s Educational Series, Inc.

10.            UNIDROIT, Những Nguyên tắc Hợp đồng Thương mại Quốc tế (Lê Nết dịch), 1999, Nxb.TP Hồ Chí Minh.

11.            Yates, D., Exclusion Clauses in Contracts (2nd Edition), 1982, Sweet & Maxwell.

 



[1] Yates, D., Exclusion Clauses in Contracts, 2nd Edition, 1982, Sweet & Maxwell, tr. 1.

[2] Steven H. Gifis, Baron’s Law Dictionary, sixth edition, 2010, Baron’s Educational Series, Inc, tr. 196.

[3] Lexisnexis, Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, https://www.lexisnexis.co.uk/legal/guidance/exclusion-clauses-in-insurance-contracts, truy cập ngày 20/09/2021.

[4] Khoản 1 Điều 16 Luật Kinh doanh bảo hiểm được ban hành năm 2000, sửa đổi bổ sung một số điều vào các năm 2010 và 2019 (gọi tắt là Luật KDBH).

[5] Điểm đ Khoản 1 Điều 13 Luật KDBH.

[6] Khoản 2 Điều 16 Luật KDBH.

[7] Bùi Thị Hằng Nga, Bạch Thị Nhã Nam, Pháp luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam, 2019, Nxb. Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, tr.5.

[8] Quyết định 35/2015/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung QĐ 02/2012/QĐ-TTg về việc ban hành danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung.

 

[9] Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết của Bảo Việt được Bộ Tài chình phê chuẩn theo công văn số 2536/BTC-QLBH ngày 07/03/2018.

[10] Phí Thị Quỳnh Nga, Những bất cập của điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong Luật Kinh doanh bảo hiểm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10/2006.

 

[11] Điểm b Khoản 1 Điều 5 Thông tư số 329/2016/TT-BTC do Bộ Tài chính ban hành ngày 26/12/2016 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 119/2015/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng.

[12] Điểm đ Khoản 1 Điều 5 Thông tư số 329/2016/TT-BTC. Xem thêm Khoản 9, Điều 3 Luật KDBH:” Quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm.”

[13] Điểm a Khoản 5 Điều 39 NĐ 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.

[14] Khoản 1 Điều 39 Nghị định 73/2016/NĐ-CP.

[15] Điều 39, Điều 40 Nghị định 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.

[16] Tham khảo bộ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trong Công văn số 12200/BTC-QLBH của Bộ Tài chính chấp thuận cho Công ty TNHH Manulife (Việt Nam) được triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị đóng phí định kỳ (phiên bản 2).

[17] Tham khảo các công bố sản phẩm, thông tin phê chuẩn, chấp thuận sản phẩm bảo hiểm, đăng ký sản phẩm bảo hiểm tại trang web của Cục quản lý giám sát bảo hiểm – Bộ Tài chính: https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/cqlgsbh/, trang web Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam: https://www.iav.vn/, truy cập ngày 20/09/2021.

[18] Phùng Đắc Lộc, Bàn về loại trừ bảo hiểm, https://webbaohiem.net/ban-ve-loai-tru-bao-hiem.html, truy cập ngày 20/09/2021.

[19] Tham khảo thêm quy định tại Điều 121 L, Luật bảo hiểm của Pháp: “The insurer shall not be liable for losses and damage caused either by a foreign war, civil war, riots or by civil commotion, unless otherwise agreed”.

[20] BCCI v Ali [2001] UKHL 8.

[21] Điều 21, Luật KDBH, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 405, Bộ luật Dân sự 2015.

[22] Xem thêm về nguyên tắc contra proferentem trong Bùi Thị Hằng Nga, Bạch Thị Nhã Nam, Tlđd, tr.114 – tr.120.

[23] UNIDROIT,Những Nguyên tắc Hợp đồng Thương mại Quốc tế (Lê Nết dịch), 1999, Nxb.TP Hồ Chí Minh, tr.236.

[24] Toàn văn Luật bảo hiểm Trung Quốc được công bố trên trang web của Quốc vụ viện Trung Quốc: http://www.npc.gov.cn/zgrdw/englishnpc/Law/2011-02/15/content_1620648.htm, truy cập ngày 20/07/2021.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 22/2018/AL VỀ NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG TIN CỦA BÊN MUA BẢO HIỂM

Trách nhiệm cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm giai đoạn tiền hợp đồng

NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG TIN TIỀN HỢP ĐỒNG DƯỚI GÓC NHÌN KINH TẾ HỌC PHÁP LUẬT